Khi lạm phát kéo dài và giá cả tăng cao, không chỉ người sống mà người đã khuất cũng chịu ảnh hưởng không kém. Và điều này thật sự đã và đang diễn ra tại “quốc gia có mặt trời không bao giờ mọc”.

Tang lễ “đắt xắt ra miếng”

Theo Euronews, chi phí sinh hoạt không phải là thứ duy nhất tăng lên ở Vương quốc Anh, tang lễ cũng trở nên đắt đỏ hơn.

Theo báo cáo của SunLife, một công ty dịch vụ tài chính có trụ sở tại Anh, trong 16 năm qua, chi phí trung bình cho một đám tang đã tăng 130% .

Vào năm 2004, một đám tang điển hình sẽ tiêu tốn của bạn khoảng £1.920 (€2.170). Đến năm 2019, con số này đã tăng lên 4.417 bảng Anh (5.000 euro).

Tuy nhiên, chi phí tang lễ có thể thay đổi đáng kể tùy thuộc vào địa điểm, loại và hình thức.

London, khu vực đắt đỏ nhất nước Anh, không ngạc nhiên khi là nơi yêu cầu chi phí tang lễ tốn kém nhất. Ở đây, chi phí tang lễ vào khoảng 5.283 bảng Anh (5.975 euro) – nhiều hơn 2.000 bảng Anh (2.260 euro) so với ở Bắc Ireland.

Một gói tang lễ cơ bản bao gồm nhiều dịch vụ tang lễ cho tới hỗ trợ cho gia đình của người quá cố.

Các gia đình cũng có thể cá nhân hóa địa điểm tổ chức tang lễ, phục vụ ăn uống, hoa tang hoặc lựa chọn các dịch vụ bổ sung như xe limousine hoặc xe tang, điều này có thể khiến chi phí tăng vọt.

Nhiều gia đình ở Anh đã phải vật lộn để trang trải các chi phí tang lễ để tiễn đưa người thân của họ.

Theo Báo cáo chi phí tử vong năm 2023 của SunLife, việc tăng phí chuyên nghiệp (như chứng thực di chúc) và chi phí đưa tang (như thuê địa điểm) đã khiến tổng chi phí tử vong tăng lên 9.200 bảng Anh (10.400 euro).

Nhiều gia đình đã phải vật lộn để trang trải các chi phí này, một số phải vay nợ để chi trả cho việc tiễn đưa người thân của họ.

Một số yếu tố đằng sau việc tăng chi phí, bao gồm lạm phát và những thay đổi trong hoạt động của ngành tang lễ, bên cạnh nhu cầu mạnh mẽ hơn đối với các đám tang được cá nhân hóa và phi truyền thống.

Ngoài các nghi thức chôn cất, khi một người nào đó qua đời, có nhiều nhiệm vụ pháp lý cần được thực hiện, chẳng hạn như đăng ký người chết, thông báo cho ngân hàng và công ty bảo hiểm và giải quyết công việc của người chết.

Đây có thể là một quá trình tốn thời gian và phức tạp, và các gia đình có thể chọn tranh thủ sự giúp đỡ của luật sư để xử lý các nhiệm vụ này.

Lệ phí thông thường khoảng 1.500 bảng Anh (€1.700) hoặc £3.000 (€3390) cho một trường hợp đơn giản. Ngoài ra, nếu di sản của người mất trị giá hơn 325.000 bảng Anh thì có thể phải nộp thuế thừa kế. Các gia đình cần phải trả khoản này trước khi họ có thể tiếp cận bất kỳ khoản tiền hoặc tài sản nào do người quá cố để lại.

“Tháo chạy” khỏi thói quen xa xỉ

Theo tờ Bloomberg trích dẫn dữ liệu từ Barclays, nhiều người Anh đã cắt giảm chi tiêu cho những thứ xa xỉ và đi ăn ngoài vào tháng 3, trong bối cảnh thu nhập của các hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi lạm phát với con số cao.

Dựa trên phân tích dữ liệu về các giao dịch thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ, ngân hàng Barclays cho biết hơn một nửa số chủ thẻ đã giảm chi tiêu cho các mặt hàng xa xỉ, trong khi 6/10 người giảm chi tiêu cho việc đi ăn ngoài và mua quần áo mới.

Dữ liệu này cho thấy rằng người tiêu dùng Anh đang thay đổi thói quen mua sắm để tiết kiệm tiền trong bối cảnh cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt ngày càng trầm trọng. Các hộ gia đình thiếu tiền mặt đang trở nên dễ bị ảnh hưởng hơn, khi tăng trưởng tiền lương không đáp ứng được mức tăng giá lớn nhất trong 40 năm.

Lạm phát hàng năm tăng bất ngờ lên 10,4% trong tháng 2, đánh dấu tháng thứ sáu liên tiếp ở mức hai con số và gây thêm áp lực lên các hộ gia đình ở Vương quốc Anh.

 

Lợi dụng việc tổ chức Freedom House đưa ra thông báo về cái gọi là “tình hình tự do trên toàn thế giới”, cáo buộc vô căn cứ về tình hình tự do, dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, khi chấm điểm Việt Nam chỉ đạt 19/100 điểm, thuộc nhóm các quốc gia theo đánh giá của Freedom House là “không có nhân quyền, không có tự do”; một số tổ chức, cá nhân thù địch, phản động, cơ hội chính trị hùa vào vu cáo rằng “Việt Nam không có tự do”. Trong bài “Việt Nam “tự do” hơn Nga, Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba, Lào”, với giọng điệu của kẻ đồng lõa, theo đóm, ăn tàn, Phạm Phú Khải chỉ dựa trên những thông tin sai sự thật của Freedom House rồi “phán xét”:  “người Việt Nam không có quyền hay tự do gì cả”,  “khi nào Đảng Cộng sản Việt Nam còn độc quyền thì sẽ không thể nào có tự do hay dân chủ, hay nhân quyền”… Đây là những luận điệu sai trái, thù địch phủ nhận thành quả tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, hòng làm nhiễu loạn thông tin, bóp méo sự thật, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Thứ nhất, những báo cáo của Freedom House về tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam là thiếu khách quan, vô căn cứ, sai sự thật.

Freedom House (FH) là tổ chức phi chính phủ, thành lập tháng 10-1941, trụ sở đặt ở Hoa Kỳ. Từ khi mới ra đời, FH đã là cỗ máy tuyên truyền do cố Tổng thống Roosevelt lập ra để chuẩn bị tâm lý cho công chúng Mỹ đối với việc nước Mỹ tham chiến trong chiến tranh thế giới thứ hai. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, FH không bị giải thể mà tiếp tục được sử dụng để tiến hành các chiến dịch tuyên truyền, vận động cho Kế hoạch Marshall và tổ chức NATO, đồng thời tuyên truyền chống Chủ nghĩa cộng sản. Hầu hết kinh phí hoạt động của FH do Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ nên nó trở thành một công cụ của những người đã chi tiền để hoạt động dưới vỏ bọc nghiên cứu, theo dõi, cổ súy cho tự do, dân chủ, nhân quyền theo kiểu phương Tây.

Mặc dù, tuyên bố mục đích hoạt động là ủng hộ sự tiến bộ và thúc đẩy mở rộng tự do, dân chủ, nhân quyền trên toàn thế giới. Nhưng, nhiều năm qua, những thông tin mà FH nêu ra liên quan đến nhiều nước, trong đó có Việt Nam lại thiếu khách quan, vô căn cứ, sai lệch thực tế, mang động cơ tiêu cực về chính trị. Chính vì vậy, các bản báo cáo của tổ chức này đã bị lên án và phản đối mạnh mẽ của nhiều quốc gia. Trước những đánh giá vô căn cứ của FH, Vladimir Kolotov – Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh (Saint-Peterburg – LB Nga) cho rằng: “Năm nào họ cũng công bố bảng danh sách mang tính chủ quan, không có gì thay đổi, không phản ánh tình hình thực tiễn về các khía cạnh nhân quyền của các nước trên thế giới. Họ không dựa trên cơ sở thực tế. Họ tự cho mình cái quyền cáo buộc nước khác vi phạm nhân quyền, quyền tự do tín ngưỡng,… và dựa vào đó để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”. Ðại sứ Kazakhstan tại Việt Nam, ông Yerlan Baizhanov bình luận: “Có những tổ chức nhân quyền có tư tưởng rất cứng nhắc, phiến diện. Họ bị chi phối bởi tham vọng chính trị. Họ không chú ý đến sự khác biệt về hoàn cảnh lịch sử, văn hóa. Khi lập báo cáo, họ thường bị yếu tố chính trị và định kiến chi phối. Chúng ta sống và làm việc không phải để làm hài lòng những tổ chức như FH, mà Nhà nước của chúng ta hoạt động để người dân có cuộc sống tốt lên trên thực tế. Ðó mới là điều quan trọng nhất”…

Do đó, báo cáo của FH là vô giá trị và không cần thiết phải bình luận thêm. Nên, khi đưa ra câu hỏi vô nghĩa “đến khi nào Việt Nam sẽ được FH đánh giá tự do”, Phạm Phú Khải đã lộ rõ nguyên hình là kẻ cơ hội, phản động, phụ họa theo những luận điệu sai trái, chống phá Đảng, Nhà nước.

Thứ hai, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong bảo đảm tự do, dân chủ, nhân quyền

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trong việc bảo đảm tự do, dân chủ, nhân quyền, từ quyền về dân sự, chính trị đến quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền tự do công dân. Quyền tự do của người dân được thể hiện rõ ở: quyền bầu cử và ứng cử; quyền tự do ngôn luận, báo chí; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo… Các quyền này được hiến định trong Hiến pháp, quy định của pháp luật và được thực hiện trên thực tế.

Nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, Nhà nước đã thành lập Ủy ban quốc gia, đẩy nhanh tiến độ xây dựng “Chính phủ điện tử”; Cổng thông tin điện tử của các cơ quan Nhà nước, nhằm cung cấp dịch vụ công trực tuyến để cán bộ, cơ quan, tổ chức đối thoại trực tiếp với nhân dân, nâng cao hiệu quả tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp.

Cùng với đó, Nhà nước đã triển khai thực hiện thắng lợi nhiều chương trình phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người. Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc về xóa đói giảm nghèo, phát triển con người và chất lượng cuộc sống. Là quốc gia đạt được kết quả ấn tượng trong việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đã hai lần được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.

Lĩnh vực giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho người dân ngày càng được nâng cao. Đến nay cả nước đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học. Ngoài sự phát triển các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe trực tiếp, Bảo hiểm y tế được phát triển, mở rộng.

Phụ nữ và trẻ em ngày càng được chăm sóc và bảo vệ tốt hơn để phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần. Các chính sách đổi mới đã tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế-xã hội của đất nước. Lao động nữ được quan tâm nhiều hơn trong thời kỳ thai sản và tuổi nghỉ hưu. Người khuyết tật được quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để được học văn hóa, được ưu tiên bố trí việc làm…

Đó là kết quả khách quan không thể phủ nhận, mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đa số người dân hài lòng với những giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam và được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Chứ không phải là bức tranh u ám mà Phạm Phú Khải xuyên tạc, vẽ ra.

Thiết nghĩ, muốn đánh giá về tự do, dân chủ, nhân quyền của một quốc gia nào đó, cần phải dựa vào đại đa số ý kiến của người dân đất nước đó. Những đánh giá, phán xét về Việt Nam với gam màu xám một cách tùy tiện, vô căn cứ đều là sự xuyên tạc, quy chụp, định kiến, vì thế không đáng tin cậy./.

Nhân văn Việt

 

Trong lịch sử chứng minh, bất chấp các đợt sóng công kích, chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin của mọi loại “kẻ thù lớn nhỏ”, nhưng kỳ lạ thay, sau mỗi lần như thế, bản chất khoa học, cách mạng, tiếng vang và tầm ảnh hưởng của học thuyết này không những được tái khẳng định, mà còn được lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng hơn với tinh thần mới, sức sống mới.

Ở  nước ta, với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chủ yếu nhằm hạ thấp uy tín, vị thế, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, trực diện là xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, bôi đen, hạ thấp vai trò, tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với nhiều kịch bản nham hiểm nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước; chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, Quốc hội với Quân đội, Công an và Nhân dân với nội dung, hình thức mới khiến chúng ta không thể xem thường.

Đối tượng mà các thế lực thù địch tập trung chống phá là khá toàn diện; trong đó đội ngũ trí thức được họ đặc biệt quan tâm với tham vọng: lực lượng này sẽ tạo ra sự “khô đảng, nhạt đoàn, thờ ơ chính trị” trên diện rộng để từng bước làm phai nhạt hệ tư tưởng vô sản; tạo ra sự đứt gãy từ những tác động, ảnh hưởng của Đảng đối với thế hệ trẻ và nhân dân, từ đó dễ bề ngăn chặn sự lan tỏa, tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xã hội, thể hiện  ưu thế của CNTB, cũng như văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam, dần dần chiếm địa vị thống trị đời sống tinh thần xã hội Việt Nam.

Các thế lực thù địch đã và đang triệt để khai thác mạng xã hội và áp dụng các chiêu trò cũ, thủ đoạn mới rất thâm độc là – lấy kết quả, kinh nghiệm đúc rút từ đánh sập CNXH ở Liên Xô và Đông Âu từ những năm 90 của thế kỷ XX để áp dụng vào Việt Nam; ra sức gây sự hỗn loạn về tư tưởng; đặc biệt là sự thờ ơ chính trị cộng sản, tẩy chay, phản kích chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngay trong nội bộ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; những người đã từng có vị thế, vai trò chủ chốt trong hệ thống chính trị. Trong đó, đối tượng họ đặc biệt quan tâm lôi kéo, mua chuộc là một số cán bộ hưu trí và doanh nhân bất mãn, bất đồng quan điểm chính trị, đối lập về hệ tư tưởng với Đảng; có thái độ “phủ nhận sạch trơn” thành quả của chế độ XHCN khi quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế của họ bị xung đột.

Cùng với đó, họ “bơm tin giả”, “mớm mồi”, “xúi giục” những người này phát ngôn lệch chuẩn, tán phát các tin, bài, video clip có nội dung sai trái, gây nhiễu loạn đời sống văn hóa, tinh thần xã hội cốt để bôi đen chế độ XHCN. Đó là cách hành xử mà họ muốn tạo ra, ở một chừng mực nhất định, họ đã đạt được một số kết quả, rõ nhất là tạo ra hiện tượng phân rã về mặt tổ chức, sự phân hóa đối tượng cán bộ, đảng viên ở một số cơ quan, đơn vị “chậm tiến”, “không hoàn thành tốt nhiệm vụ”; làm mất đi tính chất thiêng liêng, cao quý của danh hiệu đảng viên, nhất là những người có uy tín trong tổ chức đảng, đã gục ngã bởi “viên đạn bọc đường của thời cơ chế thị trường” và chủ nghĩa cá nhân. Những người này đã “tự thú sai lầm” về việc cả đời tin tưởng và đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tin vào đường lối đổi mới của Đảng.

Trong số cán bộ vi phạm kỷ luật có người đã từng giữ chức vụ cao cấp trong bộ máy của Đảng, Nhà nước ta; thậm chí có người là giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, đã từng làm công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực thù địch là tinh vi, thâm độc và nguy hiểm vì họ biết lợi dụng tình thế, đánh vào sự tự tôn, tự trọng, tự cao, tự ái của những người đã từng có chức, có quyền khi mất chức; sử dụng uy tín của những người có danh tiếng đã “thất sủng” để gây ảnh hưởng tiêu cực trong nhân dân; tạo ra thái độ, hành vi “chán ngán” chính quyền, chế độ; đã phát ngôn thiếu ý thức xây dựng, nhất là sự bày tỏ quan điểm không hài lòng về các sự việc liên quan trực tiếp đến lợi ích của mình.

Từ đó, họ quy kết mọi sai lầm của Đảng, Nhà nước về một khuyết điểm chung, lớn nhất là do Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Các phát ngôn và hành vi thiếu chuẩn mực cũng từ đây mà “tuôn ra”; thậm chí vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng do coi thường chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối đổi mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Đây là mảnh đất mầu mỡ để “nảy chồi tư tưởng dân chủ”, phục hưng “cuộc cách mạng nhân dân” mà điểm mấu chốt là làm rối loạn nhận thức, gây ra các “cuộc đấu khẩu”, “đấu lý” trên mặt trận chính trị tư tưởng nguy hiểm, nhất là trên mạng xã hội. Họ đã bám vào sự việc có thật là sụp đổ của chế độ XHCN theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu, để tấn công Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Hơn thế, biết cách lựa chọn những vấn đề nóng, được xã hội đặc biệt quan tâm để tập trung chống phá; huy động, tập hợp các đối tượng bất mãn, hướng trọng tâm, trọng điểm vào chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, “xoáy” vai trò lãnh đạo của Đảng; con đường đi lên CNXH ở nước ta, nội dung Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Luận điểm nổi nhất mà họ tập trung xuyên tạc là: “Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết ngoại lai”, “ra đời ở châu Âu; mà châu Âu lại không phải là Việt Nam nên nó xa lạ với Việt Nam”, v.v.. Từ đó, họ kích động các phần tử bất mãn “quay lưng”, chống phá Đảng ta. Hơn thế, họ còn cổ suý cho việc nhận thức lại sự khác biệt, tính chất xa vời của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam để “tẩy chay chủ nghĩa Mác – Lênin”, “chỉ nên giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh” nhưng thực chất là phủ nhận cả hai.

Tư tưởng độc hại này đã và đang được tán phát trên không gian mạng, tạo ra luồng dư luận tiêu cực, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập và làm tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, khi sự “bán tín bán nghi” tồn tại trong đầu óc một số người dân là rất nguy hiểm và chính nó đang tạo ra nguy cơ trực tiếp hủy hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta; để lại khoảng trống và các khe hở trong công tác tư tưởng, làm cho các thế lực thù địch dễ dàng lợi dụng, phản kích chủ nghĩa Mác – Lênin mà không tốn nhiều công sức.

Như vậy, đối với mỗi người chúng ta có một chuỗi công việc cần làm để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, việc trước tiên là đầu tư một cách căn cơ công tác nghiên cứu cơ bản, chiến lược; bổ sung, phát triển, làm sống động chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng. Đưa được kết luận khoa học về những luận điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đến nay vẫn còn nguyên giá trị; nghĩa là ở thời các ông và thời nay đều đúng. Đồng thời, phải chỉ ra một số luận điểm của các ông đến nay không còn phù hợp, cần phải bổ sung, phát triển, làm sâu sắc hơn bằng chính thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Theo đó, hệ thống giáo trình, giáo khoa, tài liệu học tập, tuyên truyền, giáo dục chính trị cũng cần phải chuẩn hóa lại, nâng cao hơn nữa tầm tư tưởng, trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân./.

Nguồn: Nhân Quyền

 Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp lâu dài, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Quá trình tiến hành, việc tiếp thu, chọn lọc tinh hoa thế giới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo là cần thiết. Song, những biểu hiện “sùng ngoại” dẫn đến phủ nhận, chệch hướng trong giáo dục ở Việt Nam hiện nay là rất nguy hại, cần phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ.



Ảnh minh họa: Internet

“Sùng ngoại” trong giáo dục tuy chưa phải là hiện tượng phổ biến, nhưng đã xuất hiện từ lâu và được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Điển hình nhất là sự tôn sùng, đánh giá thái quá cách thức, phương pháp, sản phẩm, giá trị giáo dục của nước ngoài; hạ thấp, coi thường nền giáo dục, sản phẩm giáo dục trong nước. Theo đó, một số người theo quan điểm này luôn ra sức quảng bá, tô vẽ, khuếch trương nền giáo dục nước ngoài, coi đó là thượng đẳng, là lý tưởng, con đường duy nhất để thế hệ trẻ Việt Nam có điều kiện làm “rạng rỡ tương lai, mở mang tiền đồ”. Nguy hiểm hơn, họ đòi loại bỏ các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi chương trình đào tạo; rằng: người dạy, người học phải được tự do về tư tưởng, không bị chi phối hoặc phụ thuộc vào bất cứ hệ tư tưởng nào. Thậm chí, lợi dụng một số hiện tượng tiêu cực, yếu kém trong giáo dục, đào tạo, không ít kẻ đã xuyên tạc, thổi phồng quá mức,... làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào nền giáo dục nước nhà cũng như niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.

“Sùng ngoại” trong giáo dục nếu không được ngăn chặn, nó sẽ như những “virus độc hại” lây lan, tác động to lớn đến con người và xã hội, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường. Trong đó có tác động làm sói mòn bản sắc văn hóa dân tộc, thay đổi những giá trị đạo đức cốt lõi bằng chủ nghĩa thực dụng, đề cao cá nhân, lối sống hưởng thụ, tôn thờ vật chất,… ảnh hưởng xấu đến đạo đức, lối sống, nhất là của giới trẻ. Sâu xa hơn, “sùng ngoại”, lai căng trong giáo dục sẽ làm thay đổi nhận thức, tư duy, khiến thế hệ trẻ mơ hồ về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Giáo dục phải mang tính giai cấp

Theo quan điểm của Đảng, “Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng”1. Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Như vậy, nền giáo dục Việt Nam phải phục vụ mục đích chính trị cao quý của Đảng: vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi sự cải cách, hội nhập đều phải hướng tới mục tiêu cốt lõi này. Vì thế, việc tôn sùng, hướng tới sao chép một cách cứng nhắc mô hình giáo dục của nước ngoài để thay thế cho nền giáo dục Việt Nam theo quan điểm “sùng ngoại” là hoàn toàn phản khoa học; bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong chương trình giáo dục không chỉ đơn thuần là sự đòi hỏi “cải cách”, mà thực chất đó là tư tưởng phản động, đi ngược lại với lợi ích của đất nước.

Thực tế không thể phủ nhận

Thực tiễn những năm qua cho thấy, cùng với những thành tựu to lớn đạt được, sự nghiệp giáo dục, đào tạo của nước ta cũng tồn tại không ít hạn chế, bất cập. Đó là điều bình thường, nhất là đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên, nếu luôn cho rằng, nền giáo dục Việt Nam là lạc hậu, thấp kém, cần phải thay thế bằng các mô hình giáo dục của nước này, nước kia để theo kịp thế giới là biểu hiện rõ nét của sự “sùng ngoại”; là sự nhìn nhận phiến diện, phủ nhận sạch trơn những thành tựu của giáo dục Việt Nam. Nhìn lại lịch sử, với chính sách “ngu dân” thâm độc mà thực dân Pháp áp dụng trong suốt thời gian đô hộ nước ta, cho đến năm 1945, khi đất nước giành được độc lập, có tới 95% dân số mù chữ. Từ nền tảng gần bằng không đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, đặc biệt là ngành giáo dục và toàn dân, giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần đặc biệt quan trọng để đất nước có được cơ đồ, vị thế, uy tín như ngày nay.

Với quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”, Việt Nam là nước có mức đầu tư cho giáo dục cao trên thế giới, có xu hướng tăng đều trong từng năm2. Đặc biệt, Việt Nam trở thành điểm sáng trong khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương về kết quả, thành tích các cuộc thi Olympic quốc tế dành cho học sinh. Năm 2022, 38 lượt học sinh dự thi Olympic quốc tế đều giành huy chương, đưa Việt Nam năm thứ 2 liên tiếp lọt vào nhóm 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có thành tích tốt nhất tại các kỳ thi này; trong đó, xếp thứ 4/104 quốc gia và vùng lãnh thổ tại Olympic Toán học quốc tế lần thứ 63 (IMO 2022). Sự kiện Việt Nam lần thứ 5 trúng cử thành viên Hội đồng Chấp hành Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) nhiệm kỳ 2021 - 2025 (tháng 11/2021) đã khẳng định vai trò, vị thế, uy tín và những đóng góp chủ động, tích cực, hiệu quả của nước ta đối với các chương trình, định hướng lớn của UNESCO trên các lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Những chuyển biến tích cực của giáo dục Việt Nam còn được thể hiện rõ nét thông qua đánh giá của các tổ chức quốc tế uy tín. Theo kết quả xếp hạng các quốc gia tốt nhất về giáo dục năm 2021 của USNEWS, Việt Nam xếp thứ 59, tăng 6 bậc so với năm 2020 (kết quả dựa trên khảo sát toàn cầu về ba thuộc tính cùng trọng số của mỗi quốc gia: có hệ thống giáo dục công phát triển tốt; mọi người có cân nhắc theo học đại học ở đó hay không; quốc gia đó cung cấp nền giáo dục chất lượng hàng đầu hay không). Hiện nay, Việt Nam có 07 cơ sở giáo dục vào nhóm 1.000 trường đại học có ảnh hưởng thế giới (theo bảng xếp hạng The Impact Rankings được Tạp chí Times Higher Education (THE) công bố vào tháng 4/2022). Những số liệu trên chưa thể hiện được toàn diện thành tựu trong giáo dục, cũng chưa đề cập đến những yếu tố chính trị, tinh thần mà giáo dục đem lại cho người dân, song đủ để khẳng định rằng, dù quá trình cải cách giáo dục còn có những hạn chế, bất cập, song những kết quả mà giáo dục Việt Nam đã đạt được là không hề thấp kém và không thể phủ nhận.

Giữ vững mục tiêu trong hội nhập, nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục

Hội nhập giáo dục là xu thế tất yếu khách quan và cũng là yêu cầu bắt buộc đối với giáo dục Việt Nam trong tiến trình phát triển đất nước. Việc tiếp thu, kế thừa thành tựu, kinh nghiệm của các nước trên thế giới là cách thức hiệu quả để “đi tắt, đón đầu” nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quá trình hội nhập về giáo dục của nước ta đã được tiến hành mạnh mẽ và đạt nhiều kết quả quan trọng3. Tuy nhiên, đây cũng là quá trình mà quan điểm “sùng ngoại” đã và đang tiếp tục len lỏi, tác động, tạo nguy cơ làm chệch hướng mục tiêu của nền giáo dục. Vì vậy, cần thực hiện nhất quán chủ trương: “Chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại”4. Quá trình kế thừa, tiếp thu phải chắt lọc những giá trị phù hợp, kiên quyết loại bỏ yếu tố “ngoại lai”, ảnh hưởng tiêu cực đến nền giáo dục; tăng cường hợp tác quốc tế phải bảo đảm phát triển bền vững, phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc lập, tự chủ và định huớng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng hợp tác đa phương phải gắn với tăng cường công tác quản lý nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân về giáo dục và đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài cho giáo dục, ưu tiên lĩnh vực đào tạo đại học, sau đại học và giáo dục nghề nghiệp; có cơ chế, chính sách thu hút và thẩm định chặt chẽ giáo viên, nhà khoa học người nước ngoài tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục đại học.

Cùng với đó, tập trung nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục Việt Nam. Đây là vấn đề cốt lõi để đẩy lùi quan điểm “sùng ngoại”, bài nội trong giáo dục. Trong đó, cần coi trọng cả ba mặt giáo dục: dạy làm người, dạy chữ, dạy nghề; đặc biệt chú ý giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, lịch sử, truyền thống văn hóa của dân tộc, của Đảng. Ngăn chặn kịp thời xu hướng mờ nhạt tư tưởng chính trị, xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động giáo dục, nhất là quan điểm “sùng ngoại”. Quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục nhân cách, làm cho thế hệ trẻ có đủ khả năng và bản lĩnh thích ứng với những biến đổi nhanh chóng của xã hội. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Tiếp tục xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, có chất lượng tốt.

Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra khó khăn nhất, âm thầm nhất và quyết liệt nhất là trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, trong đó giáo dục là một trận địa quan trọng. Cảnh giác, đấu tranh, loại bỏ quan điểm “sùng ngoại” trong giáo dục sẽ giữ vững định hướng, mục tiêu của giáo dục, trực tiếp góp phần xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.

Thượng tá, TS. VŨ THANH TÙNG, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng - Nguồn: Tạp chí QPTD
-------------------------------

1 - Khoản 1, Điều 3, Chương I, Luật Giáo dục năm 2019.

2 - Riêng giai đoạn 2011 - 2020, tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đạt trung bình khoảng 17% - 18%, có năm gần 19%. So với Mỹ (13%), Indonesia (17,5%), Singgapore (19,9%). Mức chi cho giáo dục của nước ta hằng năm tương đương 4,9% GDP, chỉ kém Malaysia 5%, cao hơn các nước khác trong khối ASEAN.

3 - Riêng giai đoạn 2016 - 2020, nước ta đã có hơn 70 thỏa thuận quốc tế và 23 điều ước quốc tế được ký kết, góp phần tạo hành lang pháp lý triển khai nhiều chương trình hợp tác, như: trao đổi học sinh, sinh viên, giáo viên, giảng viên; hợp tác giáo dục, nghiên cứu, đào tạo, trao đổi chuyên gia,v.v. Ngành giáo dục và các cơ sở đại học đã phê duyệt, ký kết trên 530 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, với khoảng 85.000 người đã theo học, trong đó hơn 45.000 người đã hoàn thành chương trình và được cấp bằng.

4 - Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

 

Vừa qua, phái đoàn Quốc hội châu Âu đã mở cuộc họp báo tại Hà Nội để nói lên “Sự quan ngại sâu sắc trước tình hình nhân quyền ngày càng tồi tệ” tại Việt Nam. Họ nêu ra và chỉ trích những vi phạm nhân quyền trên các lĩnh vực xã hội và chính trị, đặc biệt là “không gian tự do” của “xã hội dân sự” bị thu hẹp, các điều luật mơ hồ trong Bộ Luật Hình sự được sử dụng để dập tắt mọi tiếng nói bất đồng chính kiến, các nhà hoạt động dân sự bị sách nhiễu, tự do ngôn luận bị bóp nghẹt, quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng bị hạn chế. Thông tin trên được đăng tải trên trang facebook Đài Á Châu Tự Do (RFA), ngày 07/4. Đây vẫn là những thông tin phiến diện, không chính xác về tình hình nhân quyền tại Việt Nam, cần đấu tranh, bác bỏ. Bởi vì:

Những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn tích cực, chủ động tham gia ký kết, thực hiện đầy đủ các công ước quốc tế về nhân quyền; nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm các quyền của công dân. Do vậy, các quyền, lợi ích của công dân, như: quyền tự do, dân chủ, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng,… đều được quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật, như: Luật Cư trú, Luật Báo chí, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, v.v. Đồng thời, các quyền công dân đều được bảo vệ, thực thi nghiêm túc; nghiêm cấm các hành vi cản trở việc thực hiện các quyền của công dân.

Trên thực tế, Việt Nam đã bảo đảm thực thi tốt nhất các quyền của con người, quyền của công dân. Bằng chứng là: mọi công dân đều được tự do đi lại, tự do cư trú; tự do bày tỏ ý kiến nguyện vọng của mình; mọi ý kiến của người dân đều được lắng nghe, chuyển đến các cấp chính quyền để giải quyết, được phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Bên cạnh đó, với sự phát triển mạnh mẽ của hơn 800 cơ quan báo chí, truyền thông, các trang mạng xã hội,… là diễn đàn để mọi người dân được tự do thể hiện tiếng nói, quan điểm, nguyện vọng của mình trên cơ sở tuân thủ quy định của Hiến pháp, pháp luật. Điều này, đã tạo cơ sở, điều kiện để mọi người dân Việt Nam được phát triển toàn diện, cống hiến, tham gia xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Có một thực tế không thể phủ nhận đó là: đất nước Việt Nam chưa bao giờ có được cơ đồ, vị thế, uy tín như hiện nay và được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Với sự nỗ lực, cố gắng đó, Việt Nam đã hai lần trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc và đã có những đóng góp tích cực, thực chất, trách nhiệm, thúc đẩy các sáng kiến nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc.

Đáng tiếc rằng, phái đoàn Quốc hội châu Âu khi sang Việt Nam đã không tiếp xúc với các cơ quan chức năng của Nhà nước Việt Nam tìm hiểu để có thông tin chính thức, đầy đủ, nhìn nhận, đánh giá khách quan, chính xác tình hình nhân quyền Việt Nam. Đằng này, họ lại chỉ tiếp xúc, nghe ý kiến của một số phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, có tư tưởng tiêu cực, chống phá Đảng, Nhà nước. Vì thế, có thể khẳng định rằng những thông tin mà họ đưa ra là phiến diện, hoàn toàn không chính xác, gây ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu./.

Tre Việt

70 năm trước đây, từ ngày 13-4 đến 18-5-1953, lần đầu tiên bộ đội chủ lực Việt Nam đã phối hợp với các đơn vị Pathet mở chiến dịch Thượng Lào, giành thắng lợi to lớn; đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân viễn chinh Pháp, giải phóng và mở rộng căn cứ kháng chiến của Lào tại hai tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng (Thượng Lào), xây đắp nên biểu tượng cao đẹp về tình đoàn kết chiến đấu vĩ đại Việt Nam - Lào, “mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”. Đây là minh chứng sinh động để bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, đã xuyên tạc mối quan hệ thân thiết giữa hai Đảng, hai Nhà nước, hai quân đội Việt Nam - Lào.



Hoàng thân Xuvanuvông và Đại tướng Võ Nguyên Giáp bàn kế hoạch phối hợp mở chiến dịch Thượng Lào, năm 1953.

Sau chiến dịch Tây Bắc - Thu đông 1952, Tổng Quân ủy đã nhận định: “Thượng Lào có ý nghĩa lớn về chiến lược, vừa phù hợp với trình độ tác chiến của ta… vừa mở được căn cứ cho bạn đứng chân, tạo nên một thế trận mới liên minh chiến đấu giữa hai nước Lào - Việt”. Tổng Quân ủy đã đề nghị với Đảng, Bác Hồ cho phép Quân đội ta phối hợp với quân giải phóng Lào mở chiến dịch này. Trước đề nghị hợp lý, hợp tình của ta, Chính phủ kháng chiến và Mặt trận Lào Ítxala đã tán thành chủ trương và mong muốn sau chiến dịch, Sầm Nưa sẽ là thủ đô kháng chiến của Lào và Thượng Lào sẽ là căn cứ địa của kháng chiến của cách mạng Lào.

Thượng Lào là địa bàn rộng lớn, phần lớn là rừng núi hiểm trở, nhiều sông, suối, đèo cao, vực sâu chia cắt; dân cư thưa thớt, kinh tế kém phát triển... nên việc hành quân, bảo đảm vật chất hậu cần - kỹ thuật cho Chiến dịch gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, địch lại tổ chức đánh phá quyết liệt. 

Thực hiện chủ trương của Đảng, lời căn dặn của Bác Hồ và quyết tâm Chiến dịch, các cánh quân của ta đã tranh thủ thời gian, tổ chức các bộ phận gọn nhẹ, hành quân bí mật và nhanh chóng tiến vào bao vây, cô lập, tiêu diệt địch. Ngày 3-2-1953, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Kháng chiến Lào quyết định phối hợp mở Chiến dịch Thượng Lào. Đây là lần đầu tiên Liên quân cách mạng Lào - Việt Nam phối hợp với nhau tác chiến theo một kế hoạch, cùng chống kẻ thù chung là thực dân Pháp. Đây cũng là lần đầu tiên bộ đội chủ lực của ta tác chiến trên đất bạn.


Lễ kết nghĩa bộ đội Việt Nam và bộ đội Pa-thét Lào trong Chiến dịch Thượng Lào năm 1953.

Trước khi xuất quân, ngày 3-4-1953, Bác Hồ đã viết thư căn dặn các đơn vị bộ đội có nhiệm vụ chiến đấu ở Thượng Lào: “Lần này là lần đầu tiên các chú nhận một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình” và giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng Chiến dịch. Về phía bạn, Hoàng thân Xuphanuvông - Thủ tướng Chính phủ kháng chiến Lào và đồng chí Cayxỏn Phômvihản - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng tham gia chỉ đạo Chiến dịch.

Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định tiến công địch trên 3 hướng Sầm Nưa, Xiêng Khoảng và Nậm U; trong đó, hướng chủ yếu là Sầm Nưa. Trên các hướng đã định, ngày 8-4-1953, các đơn vị chủ lực Việt Nam tiến quân sang Lào; bắt đầu uy hiếp địch ở Luông Prabang, Xiêng Khoảng và Sầm Nưa.

Trước sự tiến quân mạnh mẽ của ta, quân Pháp ở Đông Dương nhận thấy không thể “lấy trứng chọi đá” nên vội rút quân khỏi Sầm Nưa, quân ta hạ quyết tâm “truy kích địch đến cùng” nhằm tiêu diệt sinh lực địch để đánh dấu cuộc tấn công đầu tiên của quân chủ lực Việt Nam sang Thượng Lào, không cho địch chạy thoát về Cánh đồng Chum.

10 giờ ngày 13-4-1953, các đơn vị đi đầu của ta đã nổ súng đánh chặn đường rút lui của địch. Quân ta kiên quyết đã bám đuổi, truy kích, tiêu diệt và bắt sống hàng trăm tên địch, buộc số còn lại phải rút chạy về Cánh đồng Chum cố thủ. Chỉ trong một thời gian ngắn, tỉnh Sầm Nưa và vùng lân cận được giải phóng. Sau hơn một tuần truy kích trên chặng đường dài 270 km từ Sầm Nưa về Cánh đồng Chum, các đơn vị chiến đấu của ta và bạn đã tiêu diệt, bắt và làm tan rã hơn 1.500 tên địch, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn, diệt và bức rút hàng loạt cứ điểm, tạo điều kiện cho phong trào kháng chiến Lào phát triển.

Phối hợp với quân ta, nhân dân các bộ tộc Lào đã huy động hàng nghìn dân công, hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm; làm công tác dẫn đường, giữ bí mật, tiếp tế và cùng bộ đội ta lùng bắt tàn binh địch. Đến ngày 18-5-1953, Bộ Chỉ huy quyết định kết thúc chiến dịch, phân tán một bộ phận lực lượng, kết hợp cùng với bộ đội Lào truy quét tàn binh, xây dựng cơ sở, còn đại bộ phận rút quân về nước.

Sau nhiều ngày truy kích liên tục, các đơn vị tham gia chiến dịch đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.800 tên, chiếm 1/5 tổng số lực lượng địch ở Lào, giải phóng trên 35.000 km2, gồm toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và Luông Prabang với 1/5 diện tích Bắc Lào và hơn 40.000 dân; trong đó có lưu vực sông Nậm U là vùng có tầm chiến lược quan trọng, vùng giàu có nhất ở Tây Bắc nước Lào.

Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào đã tạo nên cục diện mới cho cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Lào. Kể từ đây, cách mạng Lào có một căn cứ địa rộng lớn và sát liền với vùng giải phóng của Việt Nam. Quân đội giải phóng Lào có hậu phương lớn để đứng chân, xây dựng và phát triển lực lượng. Cách mạng Lào đã nối thông với cách mạng Việt Nam, tạo thế phối hợp chiến lược giữa Việt Nam - Lào ngày càng vững chắc.

Chiến thắng Thượng Lào là thắng lợi của tinh thần quốc tế vô sản cao cả, thắng lợi của sự phối hợp chiến đấu chặt chẽ, gắn bó keo sơn giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng Lào, giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Lào. Từ đây, sự phối hợp chiến đấu giữa quân đội hai nước đã phát triển lên tầm cao mới ngày càng chặt chẽ, hiệu quả và thắng lợi to lớn hơn, đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của hai nước vững bước tiến lên giành thắng lợi mới.

Trong cuộc mít tinh mừng chiến thắng, ngày 19-5-1953, Hoàng thân Xuphanuvông nhận định: “Sầm Nưa giải phóng là một thắng lợi lớn của cuộc kháng chiến Lào… là kết quả của tinh thần đoàn kết chiến đấu anh em giữa hai nước Việt - Lào, của sự giúp đỡ không điều kiện của nhân dân, quân đội Việt Nam tiêu diệt kẻ thù chung”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Chiến dịch Thượng Lào đã hoàn thành tất cả những mục tiêu đề ra lúc đầu. Mùa xuân năm 1953 mở ra triển vọng lớn cho hai dân tộc Việt - Lào trong chiến tranh, với thế phối hợp chiến lược mới giữa cách mạng hai nước. Đó là dấu son tươi thắm trong lịch sử đoàn kết chiến đấu Việt - Lào; đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật chiến dịch trên địa bàn rừng núi của quân dân hai nước.

Thắng lợi của Chiến dịch Thượng Lào năm 1953 tác động trực tiếp đến kết cục cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta; để lại nhiều bài học quý báu đối với thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hôm nay và mai sau. Trong đó, nổi bật là bài học về chuẩn bị và thực hành chiến dịch; đặc biệt là nghệ thuật truy kích địch và chỉ có giành thắng lợi mới bác bỏ được mọi quan điểm tuyên truyền sai trái của các thế lực thù địch. Đây là những kinh nghiệm quý báu vẫn nguyên giá trị, cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, thấu đáo; được chắt lọc; đưa vào giảng dạy và và vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay./.

DƯƠNG PHƯƠNG DUY - Nguồn: Fp Nhân Văn Hà Nội

 

Phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng đã và đang được các thế lực thù địch lựa chọn và xác định là mũi nhọn tấn công và có sức “công phá” mạnh nhất vào thành trì cách mạng Việt Nam. Cuộc tấn công này của chúng diễn ra trên nhiều lĩnh vực, với các phương tiện, thủ đoạn khác nhau, nhất là trên môi trường không gian mạng.

Môi trường không gian mạng với ưu thế tốc độ lan truyền thông tin nhanh, diện thông tin rộng trở thành nhu cầu thiết yếu trong đời sống của con người. Tuy nhiên, đây cũng là môi trường được các thế lực thù địch, phản động tận dụng tối đa để gia tăng các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin – Bộ phận cấu thành quan trọng nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực tiễn cho thấy, môi trường không gian mạng luôn mở, cho phép kết nối rộng rãi, thông tin đăng ký sử dụng không cần xác thực; Việt Nam cũng là một trong số các nước có số lượng lớn người dân tham gia môi trường không gian mạng. Theo thống kê đến tháng 02/2022, có 76,95 triệu người dùng mạng xã hội ở Việt Nam, số lượng người dùng mạng xã hội ở Việt Nam vào đầu năm 2022 tương đương 78,1% dân số, trong đó người dùng Facebook là 70,4 triệu người. Mặt khác, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội đã sớm xem internet, mạng xã hội là “mảnh đất màu mỡ” để sử dụng chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin, bộ phận quan trọng hợp thành nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Tận dụng những lợi thế về phạm vi, đối tượng sử dụng không gian mạng nên các thế lực thù địch, phản động, chống đối đã thường xuyên sử dụng môi trường này để liên kết, móc nối, phát triển lực lượng trong nước, đào tạo, huấn luyện, hình thành và công khai hóa hội, nhóm xã hội dân sự có hoạt động chống đối trên không gian mạng. Chúng thành lập các nhóm Facebook, Fanpage, Blog mang màu sắc chính trị, chống phá Đảng, Nhà nước dưới hình thức “công khai, kín và bí mật” có sự tham gia, liên kết giữa các đối tượng bất mãn, thành viên của các tổ chức phản động. Sử dụng mô hình hoạt động của nhóm Fanpage, Blog, Youtube, các đối tượng chống đối đăng tải, tán phát, bình luận nhiều thông tin, bài viết, hình ảnh có nội dung công kích, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, nhận biết để vạch trần thủ đoạn này của chúng trên không gian mạng là trực tiếp góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới hiện nay.

Trong khi đó vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thấy rõ sự chống phá của các thế lực thù địch; có biểu hiện thờ ơ, đứng ngoài cuộc; chưa thể hiện tinh thần trách nhiệm, chính kiến khi tham gia mạng xã hội; thiếu ý thức, hành động phản bác những luận điệu xuyên tạc, đi ngược đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản bác những thông tin gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Qua đó, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng nói chung, chủ nghĩa Mác – Lênin nói riêng, như nhận định được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin…”. Những hạn chế này đã, đang và sẽ tiếp tục bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi vậy, mỗi chúng ta cần nêu cao cảnh giác, không để các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá./.

Nhân văn Việt

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.