Hiển thị các bài đăng có nhãn Chân dung đối tượng. Hiển thị tất cả bài đăng

 Trương Quốc Huy từng bị bắt, xử lý về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Ra tù, cứ ngỡ Huy lấy đó làm bài học, chuyên tâm làm lại cuộc đời. Thế nhưng chứng nào tật nấy, Huy trốn qua Thái Lan, sau đó sang Mỹ rồi thường xuyên có hành động câu kết các thế lực thù địch, phản động chống phá Đảng, Nhà nước một cách cực đoan.

Trương Quốc Huy sinh năm 1981, tại TP Hồ Chí Minh. Ngay từ khi ở lứa tuổi thanh, thiếu niên, Huy đã bộc lộ bản chất đua đòi, ích kỷ, tráo trở. Học hết lớp 7 rồi bỏ giữa chừng, trong thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự, Huy đã nhiều lần tự ý bỏ đơn vị đi ra ngoài gây gổ đánh nhau, vi phạm kỷ luật và bị loại ngũ. Lười biếng lao động, không chịu học hành để trở thành người có ích cho xã hội nhưng Huy lại luôn đổ lỗi cho chế độ, cho rằng mình là người tài không được trọng dụng, từ đó ngày càng trượt dài trên con đường phạm pháp, chống phá Đảng, Nhà nước.

Lật tẩy các hành động phản nước, hại dân của “con rối” Trương Quốc Huy -0
Trương Quốc Huy – đối tượng ở hải ngoại thường xuyên có hành động xuyên tạc, chống phá đất nước.

Biết rõ bản chất của Trương Quốc Huy, Lisa Phạm (thành viên của tổ chức phản động, khủng bố Việt Tân) đã nhanh chóng kết nối và dùng tiền mua chuộc Huy với nhiệm vụ thu thập các thông tin tài liệu để phát tán trên các trang mạng. Theo đó, Huy cung cấp nhiều tài liệu có nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam và phát tán tờ rơi xuyên tạc chính quyền “đàn áp tôn giáo”, “chà đạp nhân quyền”, “bắt bớ tuỳ tiện”, cổ suý và đòi phục dựng lại chế độ Việt Nam Cộng hòa. Trương Quốc Huy và Lisa Phạm đã bị cơ quan chức năng Việt Nam bắt để điều tra, làm rõ hành vi phạm pháp. Sau đó, với chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, Trương Quốc Huy tỏ ra ăn năn hối lỗi, cam kết từ bỏ hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Theo đó, Trương Quốc Huy được trả tự do, Lisa Phạm bị trục xuất về Mỹ.

Thế nhưng đó chỉ là những lời hứa suông, thể hiện rõ bản chất lật lọng của y. Ngay sau khi được ra tù, Trương Quốc Huy lại tiếp tục gia nhập các tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước, thu thập và đăng tải các bài viết vu cáo Việt Nam vi phạm tự do dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo, kích động nhân dân lật đổ chính quyền. Ngoài đăng trên trang mạng cá nhân, Huy còn gửi các bài viết này cho nhiều kênh chống Đảng, Nhà nước Việt Nam tại Hoa Kỳ với liều lượng, mật độ ngày càng cao. Với những hành vi trên, Trương Quốc Huy bị bắt lần 2 về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”, buộc chấp hành hình phạt tù.

Sau khi ra tù lần 2, với bản tính ngoan cố, hận thù chế độ, y cùng với anh trai là Trương Quốc Tuấn nhanh chóng lẩn trốn sang Thái Lan, sau đó đã được tị nạn tại Mỹ dưới sự bảo trợ, bảo lãnh của tổ chức, cá nhân phản động từng xúi giục, tiếp sức cho đối tượng hoạt động chống phá Việt Nam. Tại Mỹ, được sự tiếp sức của một số tổ chức phản động, các cá nhân chống đối, Huy liên tục có hành động kích động, xuyên tạc trắng trợn về các chính sách của Đảng và Nhà nước. Trương Quốc Huy dùng kênh Youtube, Facebook mang tên N10TV -  là kênh của tổ chức Việt Tânđể phát tán tài liệu xuyên tạc, bịa đặt, gây chia rẽ khối đoàn kết giữa người dân Việt Nam với Đảng, Nhà nước, kích động bạo lực, gây bất ổn trong nước. Mánh khóe của Trương Quốc Huy là lấy các thông tin đã được đăng tải trên báo chí trong nước để thổi phồng, xuyên tạc với những lời lẽ hết sức ngông cuồng, vu khống Đảng, Nhà nước “đàn áp nhân dân”, “bắt bớ người vô tội”… Gần đây, khi Quốc hội khóa XV tiến hành bầu Chủ tịch nước và Chủ tịch Quốc hội, với bản chất chống phá, xuyên tạc của mình, Huy đã triệt để lợi dụng kênh N10TV phát sóng trực tiếp để đưa ra những thông tin sai trái, miệt thị cá nhân, tổ chức hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ nội bộ trong Đảng, gây hoang mang dư luận xã hội, tạo sự hoài nghi trong các tầng lớp nhân dân. Huy dựng lên bức tranh u tối về công tác nhân sự tại Việt Nam, cho rằng nội bộ Đảng, Nhà nước Việt Nam mâu thuẫn, đấu đá, thanh trừng lẫn nhau dẫn đến “huynh đệ tương tàn”, cố tình đưa ra những thông tin mập mờ, những thông tin không có kiểm chứng, dựng nên những câu chuyện tưởng như bí mật, lôi cuốn sự tò mò, chú ý của dư luận để xuyên tạc, bội nhọ, dẫn dắt dư luận, từ đó hạ thấp uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Thông qua những thông tin này nhằm khiến dư luận trong và ngoài nước có cái nhìn sai trái về lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bộ máy chính trị Việt Nam hiện nay, từ đó dẫn đến nghi ngờ, dao động, mất niềm tin.

Trương Quốc Huy cho rằng, nền kinh tế Việt Nam đang trên đường đi đến sụp đổ, thậm chí người dân “đến rau muống cũng không có mà ăn”. Huy vu cáo lãnh đạo Việt Nam “lo vơ vét cá nhân, để nền kinh tế sụp đổ, chẳng quan tâm gì đến cuộc sống người dân”. Mấy năm trước, trong thời điểm cả nước ta đang tích cực phòng, chống dịch COVID-19, Trương Quốc Huy hô hào trên N10Tv kích động nhân dân không đóng thuế, không trả nợ tiền vay ngân hàng, xúi giục xuống đường biểu tình, gây rối chống lại Đảng, chính quyền.

Về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam hiện nay, Trương Quốc Huy ra sức bôi nhọ rằng lãnh đạo Việt Nam đang trong thời kỳ chỉ tập trung giải quyết vấn đề nội bộ và không có chống tham nhũng, đó chỉ là khẩu hiệu. Huy rêu rao rằng, “ở trong chế độ đó không có chống tham nhũng thật sự, còn độc Đảng thì không bao giờ chống tham nhũng được và sẽ không bao giờ chấm dứt được, càng chống càng tham nhũng”!

Thực tế đã chứng minh, sau đại dịch COVID – 19, nền kinh tế nước ta đang phục hồi và phát triển tích cực về nhiều mặt. Công tác an sinh xã hội được triển khai tích cực, thiết thực, hiệu quả, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện; quốc phòng, an ninh được tăng cường, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, đối ngoại, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, tăng cường… Niềm tin vào nền kinh tế Việt Nam đã và đang được minh chứng qua việc hàng hóa Việt Nam ngày càng hiện diện và có uy tín trên thị trường quốc tế, làn sóng đầu tư vào Việt Nam của các nước, các doanh nghiệp trên thế giới tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã và đang được Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện với tinh thần kiên quyết, kiên trì, tiến hành với quyết tâm cao, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Cùng việc xử lý nghiêm các cán bộ, đảng viên sai phạm thì các giải pháp về cơ chế, luật pháp cũng được triển khai, đem lại những kết quả thiết thực, có ý nghĩa về nhiều mặt.

Trước đó, kênh N10TV đã cố tình bôi nhọ các vấn đề liên quan tình hình thời sự, chính trị, kinh tế, xã hội trong nước, đổ lỗi rằng con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam là sự “lựa chọn sai lầm” của những người lãnh đạo trước đây, là nguyên nhân gây ra chiến tranh, nghèo đói, lạc hậu. Huy chỉ trích Đảng, Nhà nước Việt Nam “hèn với giặc, ác với dân”, bôi đen xã hội đói nghèo, quyền lợi của người dân “bị chà đạp”, từ đó kêu gọi người dân sang Mỹ để được chính phủ bảo trợ, không có làm mà vẫn có ăn, được thụ hưởng giáo dục, y tế miễn phí, tô vẽ lên một thiên đường nước Mỹ trong mơ!

Trên thực tế, gần đây trên mạng xã hội, người dân quay lại được hình ảnh Huy bị cảnh sát Mỹ “hỏi thăm”, xử lý vì không đóng tiền thuê nhà, Huy có phản ứng tiêu cực. Trương Quốc Huy - kẻ chống cộng cực đoan, lại phải đối diện với hậu quả của những hành động của mình. Bị cảnh sát Mỹ đuổi ra khỏi nhà, sống trên đất Mỹ nhưng lại trở thành người vô gia cư vì quỵt tiền thuê nhà, thật là một cái kết không thể bi kịch hơn. Những lời lẽ chửi bới, xuyên tạc về đất nước Việt Nam “bỏ mặc dân” thì giờ đây, Huy lại gặp cảnh khốn đốn ngay tại nơi hàng ngày ca tụng “thiên đường”. Thế mới thấy, nhân quyền trên mạng và nhân quyền ngoài thực tế ngay tại “xứ sở thiên đường” nó khác xa nhau như thế nào. Về mặt đạo lý, quê hương đất mẹ dù còn nghèo khó, dù còn vất vả nhưng làm sao có thể lấy đó làm cớ miệt thị, chửi bới, trong khi không có hành động nào giúp ích quê hương thoát đói nghèo, lại “quay mũi giáo” chống phá?  Qua đó có thể thấy, là một công dân người Việt Nam nhưng Huy đã tự bán rẻ lương tâm, nhận tiền của những kẻ “trở cờ” để quay lưng lại với đất nước, biến mình thành “con rối” trong tay Việt Tân. Liệu rằng Trương Quốc Huy có rút ra được bài học từ trải nghiệm của mình và tỉnh ngộ trước khi quá muộn?

 Trương Văn Dũng đã có hành vi tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; tuyên truyền những luận điệu “chiến tranh tâm lý,” phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân thông qua các bài phỏng vấn, video, clip đăng tải trên mạng xã hội.

Ngày 13/7, Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Hà Nội đã xét xử và tuyên án phúc thẩm đối với Trương Văn Dũng (SN 1958, trú ngõ 73, Nguyễn Lương Bằng, Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội) về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,” quy định tại Điều 88 Bộ luật Hình sự.

Về hành vi của bị cáo, từ tháng 10/2015 đến tháng 5/2022, thông qua trả lời chương trình “Từ cánh đồng mây” tại một file video và một file audio, Trương Văn Dũng có hành vi tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; tuyên truyền những luận điệu “chiến tranh tâm lý,” phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân thông qua các bài phỏng vấn, video, clip đăng tải trên mạng xã hội.

Bị cáo còn có hành vi tàng trữ tài liệu dạng sách với tiêu đề “Những mảnh đời sau song sắt” và 11 tài liệu dạng sách với tiêu đề “Chính trị bình dân” có mục đích thông tin xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, tuyên truyền thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân…

Bên cạnh đó, bị cáo còn có 31 băng-rôn, biểu ngữ được in trên vải bạt và 11 tài liệu được in trên giấy với nhiều kích thước khác nhau có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Sau khi xem xét, đánh giá tài liệu, chứng cứ thu thập được và lời khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Hà Nội đã tuyên Trương Văn Dũng y án sơ thẩm 6 năm tù về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Mặc dù đã có những hành vi vi phạm pháp luật nhưng Trương Văn Dũng vẫn vô cùng ngoan cố. Thậm chí, đối tượng này còn hô “đả đảo Đảng cộng sản” tại tòa. Rõ ràng sự khoan hồng của pháp luật không thể dành cho những kẻ cố chấp, muốn thành lập đa Đảng tại Việt Nam như Trương Văn Dũng.

 


Ngày 3/7, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm và tuyên án phạt bị cáo Phan Sơn Tùng (sinh năm 1984, trú tại phường Mộ Lao, quận Hà Đông, Hà Nội) 6 năm tù về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điều 117, khoản 1 – Bộ luật Hình sự.


Phan Sơn Tùng thời điểm bị khởi tố, bắt tạm giam, tháng 9/2022. 

Tổng số có 6 luật sư đăng ký tham gia bào chữa cho bị cáo Tùng. Tuy nhiên, tại phiên tòa, chỉ 3 luật sư bào chữa có mặt.

Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, ngày 1/3/2022, Cơ quan An ninh điều tra, Công an thành phố nhận được công văn, tài liệu kèm theo của Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Bộ Công an) đề nghị xác minh, xử lý vi phạm trong hoạt động sử dụng không gian mạng Internet liên quan đến đối tượng Phan Sơn Tùng.

Tùng có hình ảnh, lời nói, phát biểu trong một số video clip phát tán trên Facebook, Youtube với nội dung tuyên truyền, đả kích, nói xấu chế độ, xuyên tạc sai sự thật về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam; bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Trong đó, 11 video clip được phát tán trên kênh Youtube “Phan Sơn Tùng”, một video clip phát tán trên Facebook “Vì Việt Nam thịnh vượng”.

Cơ quan điều tra đã xác định, từ năm 2011, Phan Sơn Tùng đã tạo lập, quản lý và sử dụng 4 tài khoản mạng trực tuyến gồm: ba kênh Youtube “Vì Việt Nam thịnh vượng”, “Sơn Tùng TV”, “Phan Sơn Tùng” và một tài khoản Facebook mang tên “David Phan”.

Đến tháng 8/2022, tài khoản Facebook đã đăng lại hơn 1.000 video clip từ ba kênh Youtube trên. Các video clip thu hút trên 148 triệu lượt xem và 530.000 lượt theo dõi.

Ngoài ra, từ ngày 5-31/8/2022, Phan Sơn Tùng đăng tải qua kênh “Vì Việt Nam thịnh vượng” 10 video clip với nội dung kêu gọi thành lập tổ chức bất hợp pháp với tên gọi “Đảng Việt Nam thịnh vượng”… nhằm thu hút sự quan tâm của dư luận.

Các video clip trên được Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao thu thập. Phan Sơn Tùng cũng xác nhận đã truy cập vào kênh Youtube của mình và tự tải xuống 22 video nêu trên.

Cơ quan chức năng kết luận, quá trình quản lý các tài khoản mạng, Phan Sơn Tùng đã làm và phát tán 16 video clip có nội dung vi phạm pháp luật lên mạng Internet. Cụ thể, 26 nội dung có thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; 6 nội dung tuyên truyền thông tin gây chiến tranh tâm lý; 17 nội dung xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân… Các video clip này chủ yếu để tuyên truyền nhằm chống Nhà nước, chống Đảng, chống chính quyền.

Tại phiên tòa, Phan Sơn Tùng đã thừa nhận hành vi, thừa nhận các bài đã đăng tải là do bị cáo thực hiện nhưng không thừa nhận nội dung các bài viết đã đăng tải là vi phạm pháp luật./.

Nguồn: Nhân Quyền

 Fulro, dưới bàn tay giật dây của các thế lực thù địch, trở thành một tổ chức phản động cực kỳ nguy hiểm. Cái tên của tổ chức ấy gắn với sự đen tối, là bóng ma hãi hùng ám ảnh vùng đất Tây Nguyên. Mặc dù hiện nay, tổ chức Fulro đã bị xóa sổ, nhưng tàn dư của nó vẫn chưa thực sự chấm dứt, vẫn tồn tại trong “vấn đề Tây Nguyên” thông qua hình thức khác. Với loạt bài hồ sơ - tư liệu dài kỳ, chúng tôi xin góp phần tái hiện lại phần nào hoạt động và bản chất của tổ chức tội ác này. Đồng thời xin được tôn vinh những chiến công của quân và dân Tây Nguyên trong sự nghiệp đấu tranh đầy cam go và mất mát, hy sinh nhằm chống lại những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ sự bình yên cho mảnh đất hùng vĩ trong lòng Tổ quốc…


TỪ BAJARAKA ĐẾN FULRO
 
Theo dòng lịch sử, tiền thân của tổ chức Fulro đã có từ thời đất nước ta còn chưa sạch bóng ngoại xâm. Nhiều tài liệu trong và ngoài nước thể hiện, với chủ trương đấu tranh bất bạo động yêu cầu chấm dứt mọi chính sách phân biệt đối xử đối với các sắc tộc thiểu số Việt Nam của nhà cầm quyền Ngô Đình Diệm, ngày 1-5-1958, một số trí thức người Tây Nguyên (từ dùng của thời kỳ đó là: người Thượng), do ông Y Bham Ênuôl người Ê Đê chủ xướng, đã thành lập một tổ chức có tên gọi BaJaRaKa. Mục tiêu kết nối các sắc tộc được cho là mạnh nhất và sinh sống lâu đời ở Tây Nguyên, BaJaRaKa là chữ viết tắt tên của bốn dân tộc chủ yếu: Bahnar (người Ba Na), Djarai (người Gia Rai), Rhadé (người Ê Đê) và Kaho (người Cơ Ho). 


Cố Đại tá Vũ Linh

Chỉ sau hai tháng kể từ ngày thành lập, với chữ ký của ông Y Bham Ênuôl, ngày 25-7-1958, BaJaRaKa gửi thư đến Tòa đại sứ Pháp, Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc tố cáo những hành vi phân biệt sắc tộc của nhà cầm quyền và yêu cầu các cường quốc can thiệp để người Thượng được độc lập trong khối Liên hiệp Pháp hoặc dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ. Tiếp đó, các tháng 8 và 9 của năm này, BaJaRaKa tổ chức nhiều cuộc biểu tình thỉnh nguyện tại Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Pleiku nhưng các cuộc biểu tình này đều bị trấn áp. Tất cả những người được cho là lãnh đạo của phong trào này đều bị bắt, trong đó có ông Y Bham Ênuôl. 
 
Trước đó, từ năm 1956, thực thi mục tiêu chống cộng ráo riết, triệt để của Hoa Kỳ, các cố vấn quân sự Mỹ vào tận các buôn làng, đào tạo và trang bị vũ khí cho thanh niên Thượng. Họ tổ chức thành các đội Dân sự Chiến đấu Thượng (Civilian Indigenous Defense Group, CIDG) và Lực lượng Đặc biệt. Cuộc đảo chính của phe quân sự dưới sự hỗ trợ của CIA đã lật đổ chính thể họ Ngô vào năm 1963, với sự kiện này, tất cả những người lãnh đạo của BaJaRaKa được trả tự do. Sau đó, nhằm giảm bớt sức ép chính trị, đồng thời thực hiện mưu đồ “dùng người Thượng cai trị người Thượng”, nhà cầm quyền Sài Gòn đã bổ nhiệm một loạt các thủ lĩnh của phong trào này vào các chức vụ chủ chốt ở các tỉnh Tây Nguyên. Trong đó, ông Y Bhăm Ênuôl trở thành phó tỉnh trưởng tỉnh Đắc Lắc, ông Paul Nưr là phó tỉnh trưởng tỉnh Kon Tum. Tháng 3-1964, một lần nữa được sự ủng hộ của người Mỹ, những người lãnh đạo BaJaRaKa kết hợp với các sắc tộc Thượng khác và người Chăm tại duyên hải miền Trung thành lập “Mặt trận Giải phóng Cao Nguyên” (FLHP). Thế nhưng, ngay từ khi thành lập, “mặt trận” này đã phân chia thành hai phe đối nghịch nhau: phe ôn hòa do Y Bham Ênuôl đại diện và phe chủ trương bạo động do Y Dhơn Adrong cầm đầu. 
 
Trong hai tháng 3 đến 5-1964, phe bạo động trong FLHP bị quân đội Sài Gòn mở các chiến dịch truy quét gắt gao phải chạy qua Campuchia lập căn cứ tại tỉnh Mondolkiri, cách biên giới nước ta 15 km. Tại căn cứ này, họ tiếp tục tuyển mộ thanh niên Thượng tham gia FLHP chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ngày 19-9-1964, các toán biệt kích thuộc Lực lượng Đặc biệt và các đội Dân sự Chiến đấu Thượng nổi dậy đánh chiếm một số đồn ở Quảng Đức (nay là Đắc Nông) và Đắc Lắc giết chết 35 binh sỹ VNCH, bắt sống quận trưởng Đức Lập; đánh chiếm đài phát thanh Buôn Ma Thuột và kêu gọi người dân tham gia nổi dậy thành lập quốc gia độc lập. Ngày 20-9-1964, chuẩn tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Vùng II Chiến thuật đã lệnh cho Sư đoàn 23 bộ binh cùng một số tiểu đoàn biệt động quân và thiết giáp vây quanh đài phát thanh, và những đồn bị chiếm đóng. Thế nhưng, ngay thời điểm đó, Vĩnh Lộc nhận được khuyến cáo của Beachner, tham tán thứ ba tòa đại sứ Mỹ trên Cao Nguyên là dừng ngay lệnh nổ súng và tiến hành thương thuyết. Ngay sau đó, một cuộc thương lượng có sự hiện diện của quan chức tòa đại sứ Mỹ, đi đến những thỏa thuận sau: Y Bham Ênuôl được cử làm chủ tịch chính thức phong trào FLHP; tuy nhiên ngay trong chiều 20-9-1964, ông ta đã trốn sang Campuchia. Thỏa thuận thứ hai là những người Thượng chỉ huy đợt tập kích này không bị truy tố và không bị truy đuổi khi rút quân qua Campuchia… 
 
Như một cơ hội đã chín muồi cho một âm mưu lâu dài, cuộc thương lượng dưới sự “chủ trì” của người Mỹ chính là “bà đỡ” đảm bảo cho sự ra đời của một thế lực chính trị mới theo đúng ý đồ và sự sắp đặt của họ. Ngày 20-9-1964, tại Campuchia, “Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức” được thành lập (Front Uni de Lutte des Races Opprimées, đọc theo tiếng Pháp, viết tắt là FULRO (xin viết là Fulro). Mặt trận này bao gồm các thành phần: Mặt trận Giải phóng Champa (Front de Libération du Champa, FLC) tức Fulro Chăm, do Les Kosem (một tướng nhảy dù người Khmer gốc Chăm) lãnh đạo. Mặt trận Giải phóng xứ Campuchia Krom miền Tây Nam Việt Nam (Front de Libération du Kampuchea Krom, FLKK) tức Fulro Khmer, do Chau Dera làm đại diện và Mặt trận Giải phóng Cao Nguyên (Front de Libération des Hauts Plateaux, FLHP) tức Fulro Thượng, do Y Bham Ênuôl cầm đầu. Fulro đã tự “sản xuất” một lá cờ (hiệu kỳ) hình chữ nhật gồm ba sọc: màu xanh biển (tượng trưng cho biển cả), màu đỏ (biểu tượng của đấu tranh) và màu xanh lá cây (màu của rừng núi). Trên dòng sọc đỏ có ba ngôi sao trắng tượng trưng cho ba mặt trận của Fulro: Champa, Thượng và Campuchia Krom. Fulro có ba cơ quan lãnh đạo: Hội đồng Tối cao do Chau Dera làm chủ tịch, Hội đồng Bảo trợ do Les Kossem làm chủ tịch, và Ủy ban Chấp hành Trung ương do Y Bham làm chủ tịch. Trong thực tế, vào thời điểm này, Y Bham Ênuôl không có thực quyền, người nắm hết mọi quyền hành là Les Kosem. Trong khi đó, nhóm Fulro Thượng do Y Bham Ênuôl làm chủ tịch vẫn bị phân hóa thành hai như còn thời BaJaRaKa: nhóm dân sự ôn hòa do Y Bham Ênuôl lãnh đạo tiếp tục chủ trương vận động Hoa Kỳ làm áp lực với chính phủ Việt Nam Cộng hòa để Fulro Thượng được về Việt Nam hoạt động một cách chính thức; ngược lại, nhóm vũ trang do Y Dhơn Adrong cầm đầu vẫn kiên quyết chủ trương dùng bạo lực để thành lập một quốc gia độc lập của người Thượng trên cao nguyên… 


Vũ khí của Fulro

Trong thời kỳ từ 1964 đến 1969 và ngay cả những năm sau ngày nước nhà thống nhất, “câu chuyện Fulro” rất dài dòng với nhiều biến cố và sự kiện xảy ra bởi những mâu thuẫn chồng chéo giữa Fulro với chế độ Việt Nam Cộng Hòa và các thế lực chính trị khác; giữa các nhân vật, các phái khác nhau chính trong tổ chức này. Cũng trong những năm này, Fulro liên tục thay đổi bộ máy cầm đầu, trong đó, có không ít kẻ bị đồng bọn ám sát trong quá trình thanh trừng, tranh giành quyền lực. Nói ra rất tốn giấy mực và thời gian của bạn đọc. Xin điểm thêm về sự kiện hiệp ước cuối cùng được ký kết vào ngày 1-2-1969 giữa ông Paul Nưr - đại diện Việt Nam Cộng Hòa và Y Dhê Adrong, đại diện Fulro dưới sự chủ tọa của Tổng thống Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu. Một số người trong các sắc tộc Thượng và Chăm không hài lòng với những điều khoản ký kết và vì vậy, Fulro tiếp tục đấu tranh, có lúc lộ diện, có lúc ẩn chìm. 
 
* * *
 
Năm 1975, chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, Fulro - dưới sự giật dây, hỗ trợ của các ông chủ từ xa, tiếp tục tổ chức quấy phá chống lại nước ta. Từ đầu năm 1975 đến năm 1977, Fulro tiếp tục tuyên truyền, kích động gây hận thù dân tộc và tiến hành tập kích vũ trang. Một tên thủ lĩnh khác là Y Djao Niê tổ chức lại Fulro đồng thời kêu gọi các nước Anh, Pháp, Mỹ và LHQ viện trợ. Từ năm 1982-1985, Fulro được các thế lực quốc tế và tàn quân Pôn Pốt tiếp sức, củng cố căn cứ ở Mondolkiri và đưa được các toán đặc biệt về vùng ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia lập “mật cứ” đón gián điệp, biệt kích, lực lượng lưu vong trở về như Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh và các toán phản động khác. Trong thời gian từ năm 1979-1985, hoạt động Fulro đã phá hoại cuộc sống bình yên của các thôn ấp, buôn làng, giết hại nhiều cán bộ, công an, dân quân và quần chúng tốt. Nhưng lực lượng công an, quân đội ta được nhân dân các đồng bào dân tộc ủng hộ đã đẩy mạnh công tác nghiệp vụ, đấu tranh thắng lợi trong hàng chục chuyên án, làm tan rã nhiều nhóm Fulro và đưa họ trở về với cộng đồng. 


Máy đánh chữ của Fulro do lực lượng ta thu được

Ở Tây Nguyên, cuối thập niên 80, không còn mấy ai nhắc đến Fulro nữa. Cho đến năm 1992, vấn đề Fulro lại xuất hiện ở khu vực biên giới Thái Lan - Campuchia. Theo phóng viên người Mỹ Nate Tahyer trên tờ New Straits Times: “Lực lượng mang tên là Fulro-Dega là một tổ chức vũ trang đặt dưới quyền lãnh đạo của đại tá Y Peng Ayun, vẫn tiếp tục liên hiệp với Khmer Ðỏ để chống lại Hà Nội. Sau 17 năm chống cộng, lực lượng của đại tá Y Peng Ayun chỉ còn lại khoảng 2.000 người. Từ biên giới Thái -Miên, đại tá Y Peng Ayun tuyên bố rằng, lực lượng Fulro-Dega sẽ tiếp tục đấu tranh cho tới khi nào Cộng Sản trao trả lại tự do cho dân tộc Tây Nguyên.” Năm 1994, khi LHQ đưa lực lượng quốc tế UNTAC vào thực hiện giải pháp chính trị ở Campuchia, Fulro không còn chỗ dựa. Với sự chấp thuận của Mỹ, tháng 12-1992, toàn bộ số Fulro còn lại gồm 407 tên do Y Peng Ayun cầm đầu đã ra hàng UNTAC, tuyên bố chấm dứt hoạt động chính trị và vũ trang, nộp vũ khí và được người Mỹ đưa đi định cư ở bang Colorado…
 
Hồ sơ về Fulro là hồ sơ về một tổ chức phản động, một tổ chức tội ác. Tổ chức đó đã bị xóa sổ trước tinh thần đấu tranh không mệt mỏi của quân và dân ta trong công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ và cuộc sống bình yên của nhân dân. Thế nhưng, tàn dư của nó vẫn còn khi vẫn còn đó những thế lực thù địch, những âm mưu đen tối chống phá đất nước và nhân dân ta. Lật lại hồ sơ Fulro, chúng tôi muốn gửi đến bạn đọc những thông tin dù đã từng xảy ra trong quá khứ, nhưng bài học cảnh giác thì luôn tươi mới…

 Fulro, dưới bàn tay giật dây của các thế lực thù địch, trở thành một tổ chức phản động cực kỳ nguy hiểm. Cái tên của tổ chức ấy gắn với sự đen tối, là bóng ma hãi hùng ám ảnh vùng đất Tây Nguyên. Mặc dù hiện nay, tổ chức Fulro đã bị xóa sổ, nhưng tàn dư của nó vẫn chưa thực sự chấm dứt, vẫn tồn tại trong “vấn đề Tây Nguyên” thông qua hình thức khác. Với loạt bài hồ sơ – tư liệu dài kỳ, chúng tôi xin góp phần tái hiện lại phần nào hoạt động và bản chất của tổ chức tội ác này. Đồng thời xin được tôn vinh những chiến công của quân và dân Tây Nguyên trong sự nghiệp đấu tranh đầy cam go và mất mát, hy sinh nhằm chống lại những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ sự bình yên cho mảnh đất hùng vĩ trong lòng Tổ quốc…

Các thành viên của tổ chức phản động Fulro. Chỉ huy Les Kosem đứng giữa.

Từ BaJaRaKa đến Fulro

Theo dòng lịch sử, tiền thân của tổ chức Fulro đã có từ thời đất nước ta còn chưa sạch bóng ngoại xâm. Nhiều tài liệu trong và ngoài nước thể hiện, với chủ trương đấu tranh bất bạo động yêu cầu chấm dứt mọi chính sách phân biệt đối xử đối với các sắc tộc thiểu số Việt Nam của nhà cầm quyền Ngô Đình Diệm, ngày 1-5-1958, một số trí thức người Tây Nguyên (từ dùng của thời kỳ đó là: người Thượng), do ông Y Bham Ênuôl người Ê Đê chủ xướng, đã thành lập một tổ chức có tên gọi BaJaRaKa. Mục tiêu kết nối các sắc tộc được cho là mạnh nhất và sinh sống lâu đời ở Tây Nguyên, BaJaRaKa là chữ viết tắt tên của bốn dân tộc chủ yếu: Bahnar (người Ba Na), Djarai (người Gia Rai), Rhadé (người Ê Đê) và Kaho (người Cơ Ho).

Y Bham Ênuôl, người khởi xướng và lãnh đạo BaJaRaKa.

Chỉ sau hai tháng kể từ ngày thành lập, với chữ ký của ông Y Bham Ênuôl, ngày 25/7/1958, BaJaRaKa gửi thư đến Tòa đại sứ Pháp, Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc tố cáo những hành vi phân biệt sắc tộc của nhà cầm quyền và yêu cầu các cường quốc can thiệp để người Thượng được độc lập trong khối Liên hiệp Pháp hoặc dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ. Tiếp đó, các tháng 8 và 9 của năm này, BaJaRaKa tổ chức nhiều cuộc biểu tình thỉnh nguyện tại Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Pleiku nhưng các cuộc biểu tình này đều bị trấn áp. Tất cả những người được cho là lãnh đạo của phong trào này đều bị bắt, trong đó có ông Y Bham Ênuôl.

Trước đó, từ năm 1956, thực thi mục tiêu chống cộng ráo riết, triệt để của Hoa Kỳ, các cố vấn quân sự Mỹ vào tận các buôn làng, đào tạo và trang bị vũ khí cho thanh niên Thượng. Họ tổ chức thành các đội Dân sự Chiến đấu Thượng (Civilian Indigenous Defense Group, CIDG) và Lực lượng Đặc biệt. Cuộc đảo chính của phe quân sự dưới sự hỗ trợ của CIA đã lật đổ chính thể họ Ngô vào năm 1963, với sự kiện này, tất cả những người lãnh đạo của BaJaRaKa được trả tự do. Sau đó, nhằm giảm bớt sức ép chính trị, đồng thời thực hiện mưu đồ “dùng người Thượng cai trị người Thượng”, nhà cầm quyền Sài Gòn đã bổ nhiệm một loạt các thủ lĩnh của phong trào này vào các chức vụ chủ chốt ở các tỉnh Tây Nguyên. Trong đó, ông Y Bhăm Ênuôl trở thành phó tỉnh trưởng tỉnh Đắc Lắc, ông Paul Nưr là phó tỉnh trưởng tỉnh Kon Tum. Tháng 3-1964, một lần nữa được sự ủng hộ của người Mỹ, những người lãnh đạo BaJaRaKa kết hợp với các sắc tộc Thượng khác và người Chăm tại duyên hải miền Trung thành lập “Mặt trận Giải phóng Cao Nguyên” (FLHP). Thế nhưng, ngay từ khi thành lập, “mặt trận” này đã phân chia thành hai phe đối nghịch nhau: phe ôn hòa do Y Bham Ênuôl đại diện và phe chủ trương bạo động do Y Dhơn Adrong cầm đầu.

Trong hai tháng 3 đến 5-1964, phe bạo động trong FLHP bị quân đội Sài Gòn mở các chiến dịch truy quét gắt gao phải chạy qua Campuchia lập căn cứ tại tỉnh Mondolkiri, cách biên giới nước ta 15 km. Tại căn cứ này, họ tiếp tục tuyển mộ thanh niên Thượng tham gia FLHP chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ngày 19-9-1964, các toán biệt kích thuộc Lực lượng Đặc biệt và các đội Dân sự Chiến đấu Thượng nổi dậy đánh chiếm một số đồn ở Quảng Đức (nay là Đắc Nông) và Đắc Lắc giết chết 35 binh sỹ VNCH, bắt sống quận trưởng Đức Lập; đánh chiếm đài phát thanh Buôn Ma Thuột và kêu gọi người dân tham gia nổi dậy thành lập quốc gia độc lập. Ngày 20-9-1964, chuẩn tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Vùng II Chiến thuật đã lệnh cho Sư đoàn 23 bộ binh cùng một số tiểu đoàn biệt động quân và thiết giáp vây quanh đài phát thanh, và những đồn bị chiếm đóng. Thế nhưng, ngay thời điểm đó, Vĩnh Lộc nhận được khuyến cáo của Beachner, tham tán thứ ba tòa đại sứ Mỹ trên Cao Nguyên là dừng ngay lệnh nổ súng và tiến hành thương thuyết. Ngay sau đó, một cuộc thương lượng có sự hiện diện của quan chức tòa đại sứ Mỹ, đi đến những thỏa thuận sau: Y Bham Ênuôl được cử làm chủ tịch chính thức phong trào FLHP; tuy nhiên ngay trong chiều 20-9-1964, ông ta đã trốn sang Campuchia. Thỏa thuận thứ hai là những người Thượng chỉ huy đợt tập kích này không bị truy tố và không bị truy đuổi khi rút quân qua Campuchia…

Như một cơ hội đã chín muồi cho một âm mưu lâu dài, cuộc thương lượng dưới sự “chủ trì” của người Mỹ chính là “bà đỡ” đảm bảo cho sự ra đời của một thế lực chính trị mới theo đúng ý đồ và sự sắp đặt của họ. Ngày 20-9-1964, tại Campuchia, “Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức” được thành lập (Front Uni de Lutte des Races Opprimées, đọc theo tiếng Pháp, viết tắt là FULRO (xin viết là Fulro). Mặt trận này bao gồm các thành phần: Mặt trận Giải phóng Champa (Front de Libération du Champa, FLC) tức Fulro Chăm, do Les Kosem (một tướng nhảy dù người Khmer gốc Chăm) lãnh đạo. Mặt trận Giải phóng xứ Campuchia Krom miền Tây Nam Việt Nam (Front de Libération du Kampuchea Krom, FLKK) tức Fulro Khmer, do Chau Dera làm đại diện và Mặt trận Giải phóng Cao Nguyên (Front de Libération des Hauts Plateaux, FLHP) tức Fulro Thượng, do Y Bham Ênuôl cầm đầu. Fulro đã tự “sản xuất” một lá cờ (hiệu kỳ) hình chữ nhật gồm ba sọc: màu xanh biển (tượng trưng cho biển cả), màu đỏ (biểu tượng của đấu tranh) và màu xanh lá cây (màu của rừng núi). Trên dòng sọc đỏ có ba ngôi sao trắng tượng trưng cho ba mặt trận của Fulro: Champa, Thượng và Campuchia Krom.

Les Kosem (áo trắng), chỉ uy Fulro Chăm và lãnh đạo thực sự của tổ chức phản động Fulro.

Fulro có ba cơ quan lãnh đạo: Hội đồng Tối cao do Chau Dera làm chủ tịch, Hội đồng Bảo trợ do Les Kossem làm chủ tịch, và Ủy ban Chấp hành Trung ương do Y Bham làm chủ tịch. Trong thực tế, vào thời điểm này, Y Bham Ênuôl không có thực quyền, người nắm hết mọi quyền hành là Les Kosem. Trong khi đó, nhóm Fulro Thượng do Y Bham Ênuôl làm chủ tịch vẫn bị phân hóa thành hai như còn thời BaJaRaKa: nhóm dân sự ôn hòa do Y Bham Ênuôl lãnh đạo tiếp tục chủ trương vận động Hoa Kỳ làm áp lực với chính phủ Việt Nam Cộng hòa để Fulro Thượng được về Việt Nam hoạt động một cách chính thức; ngược lại, nhóm vũ trang do Y Dhơn Adrong cầm đầu vẫn kiên quyết chủ trương dùng bạo lực để thành lập một quốc gia độc lập của người Thượng trên cao nguyên…

Trong thời kỳ từ 1964 đến 1969 và ngay cả những năm sau ngày nước nhà thống nhất, “câu chuyện Fulro” rất dài dòng với nhiều biến cố và sự kiện xảy ra bởi những mâu thuẫn chồng chéo giữa Fulro với chế độ Việt Nam Cộng Hòa và các thế lực chính trị khác; giữa các nhân vật, các phái khác nhau chính trong tổ chức này. Cũng trong những năm này, Fulro liên tục thay đổi bộ máy cầm đầu, trong đó, có không ít kẻ bị đồng bọn ám sát trong quá trình thanh trừng, tranh giành quyền lực. Nói ra rất tốn giấy mực và thời gian của bạn đọc. Xin điểm thêm về sự kiện hiệp ước cuối cùng được ký kết vào ngày 1/2/1969 giữa Paul Nưr, đại diện Việt Nam Cộng Hòa và Y Dhê Adrong, đại diện Fulro dưới sự chủ tọa của Tổng thống Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu. Một số người trong các sắc tộc Thượng và Chăm không hài lòng với những điều khoản ký kết và vì vậy, Fulro tiếp tục đấu tranh, có lúc lộ diện, có lúc ẩn chìm.

Giai đoạn sau năm 1975

Năm 1975, chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, Fulro – dưới sự giật dây, hỗ trợ của các ông chủ từ xa, tiếp tục tổ chức quấy phá chống lại nước ta. Từ đầu năm 1975 đến năm 1977, Fulro tiếp tục tuyên truyền, kích động gây hận thù dân tộc và tiến hành tập kích vũ trang. Một tên thủ lĩnh khác là Y Djao Niê tổ chức lại Fulro đồng thời kêu gọi các nước Anh, Pháp, Mỹ và LHQ viện trợ. Từ năm 1982-1985, Fulro được các thế lực quốc tế và tàn quân Pôn Pốt tiếp sức, củng cố căn cứ ở Mondolkiri và đưa được các toán đặc biệt về vùng ngã ba biên giới Việt Nam – Lào – Campuchia lập “mật cứ” đón gián điệp, biệt kích, lực lượng lưu vong trở về như Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh và các toán phản động khác. Trong thời gian từ năm 1979-1985, hoạt động Fulro đã phá hoại cuộc sống bình yên của các thôn ấp, buôn làng, giết hại nhiều cán bộ, công an, dân quân và quần chúng tốt. Nhưng lực lượng công an, quân đội ta được nhân dân các đồng bào dân tộc ủng hộ đã đẩy mạnh công tác nghiệp vụ, đấu tranh thắng lợi trong hàng chục chuyên án, làm tan rã nhiều nhóm Fulro và đưa họ trở về với cộng đồng.

Ở Tây Nguyên, cuối thập niên 80, không còn mấy ai nhắc đến Fulro nữa. Cho đến năm 1992, vấn đề Fulro lại xuất hiện ở khu vực biên giới Thái Lan – Campuchia. Theo phóng viên người Mỹ Nate Thayer trên tờ New Straits Times: “Lực lượng mang tên là Fulro-Dega là một tổ chức vũ trang đặt dưới quyền lãnh đạo của đại tá Y Peng Ayun, vẫn tiếp tục liên hiệp với Khmer Ðỏ để chống lại Hà Nội. Sau 17 năm chống cộng, lực lượng của đại tá Y Peng Ayun chỉ còn lại khoảng 2.000 người. Từ biên giới Thái – Myanmar, Y Peng Ayun tuyên bố rằng, lực lượng Fulro-Dega sẽ tiếp tục đấu tranh cho tới khi nào Cộng Sản trao trả lại tự do cho dân tộc Tây Nguyên”. Năm 1994, khi LHQ đưa lực lượng quốc tế UNTAC vào thực hiện giải pháp chính trị ở Campuchia, Fulro không còn chỗ dựa. Với sự chấp thuận của Mỹ, tháng 12/1992, toàn bộ số Fulro còn lại gồm 407 tên do Y Peng Ayun cầm đầu đã ra hàng UNTAC, tuyên bố chấm dứt hoạt động chính trị và vũ trang, nộp vũ khí và được người Mỹ đưa đi định cư ở bang Colorado…

Phóng viên Nate Thayer.

Hồ sơ về Fulro là hồ sơ về một tổ chức phản động, một tổ chức tội ác. Tổ chức đó đã bị xóa sổ trước tinh thần đấu tranh không mệt mỏi của quân và dân ta trong công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ và cuộc sống bình yên của nhân dân. Thế nhưng, tàn dư của nó vẫn còn khi vẫn còn đó những thế lực thù địch, những âm mưu đen tối chống phá đất nước và nhân dân ta. Lật lại hồ sơ Fulro, chúng tôi muốn gửi đến bạn đọc những thông tin dù đã từng xảy ra trong quá khứ, nhưng bài học cảnh giác thì luôn tươi mới.

 

Trên trang “Boxitvn”, Mạc Văn Trang đăng bài “Xin nói thẳng mấy điều”. Thông qua luận điệu “chỉ có bọn xâm lược, đe dọa, lăm le xâm lược nước ta là thế lực thù địch”; còn nếu những kẻ thường xuyên phát tán những luận điệu trái với đường lối, chủ trương của Đảng, chính pháp, luật của Nhà nước như y là thế lực thù địch – đối tượng đấu tranh thì“phá hoại tinh thần khoan dung, hòa hợp dân tộc, phá hoại tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, gây chia rẽ, hận thù trong xã hội”. Luận điệu đánh đồng này dễ làm mọi người hiểu không đúng quan điểm của Đảng ta về “đối tác hợp tác” và “đối tượng đấu tranh”; lầm tưởng những kẻ như Mạc Văn Trang là người “phản biện”, có tư tưởng “tiến bộ”. Bởi lẽ:

Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25-10-2013, “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Đảng ta đã xác định rõ quan điểm về “đối tác” và “đối tượng”, theo đó những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kể lực lượng nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh của Việt Nam.

Việc xác định “đối tác” và “đối tượng” này là cơ sở để xử lý đúng đắn trong hoạt động đối ngoại, thể hiện rõ mối quan hệ hữu cơ và biện chứng của hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xác định “đối tác” như vậy là phù hợp và nhất quán với quan điểm của Đảng ngay từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, đó là: Việt Nam muốn/sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Trong khi đó, theo diễn biến của tình hình thế giới và quá trình thực hiện sự nghiệp cách mạng, thực tiễn đã chỉ ra “đối tượng” ở đây bao gồm không chỉ các thế lực có âm mưu, hành động gây chiến tranh, bạo loạn lật đổ chế độ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, mà còn là những lực lượng xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc bằng phương thức vũ trang và phi vũ trang, cả từ bên trong và bên ngoài đất nước.

Như vậy, có thể tóm lược một cách ngắn gọn rằng, “đối tác” được hiểu là “đối tác hợp tác”, còn “đối tượng” là “đối tượng đấu tranh”. Và dù là “đối tác hợp tác” hay “đối tượng đấu tranh” thì mục tiêu cuối cùng và tối thượng là vì “lợi ích quốc gia – dân tộc”, “giữ vững ổn định an ninh quốc gia, trật tự xã hội, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Quan điểm của Đảng ta về “đối tác” và “đối tượng” là rõ ràng, nhất quán. Thế nhưng, với tâm địa đen tối, Mạc Văn Trang cố tình đưa ra luận điệu sai trái, xuyên tạc, cố tình đánh đồng những kẻ có hành vi tuyên truyền, chống phá, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng chính sách và pháp luật của nhà nước; có những lời nói, bài viết, phát biểu… trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội, hay trong giao tiếp xã hội nhằm mục đích chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; chống chính quyền nhân dân là “đối tác hợp tác”, là “phản biện”, “tiến bộ”. Do đó, mỗi chúng ta cần tỉnh táo, đề cao tinh thần cảnh giác chủ động phát hiện, đấu tranh vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc của Mạc Văn Trang./.

Nhân văn Việt

 

Nguyên Anh là một trong những kẻ thường xuyên có những bài viết đăng tải trên các trang mạng phản động đả kích, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bài viết “Tại Việt Nam chỉ có đạo “đảng” mà thôi” đăng trên “Quyenduocbiet” là một trong số đó. Y đã bôi nhọ, xúc phạm Đảng, Bác Hồ, xuyên tạc tự do tôn giáo ở Việt Nam cũng như quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước.

Thứ nhất, bôi nhọ, xúc phạm Đảng, Bác Hồ và các vị tiền nhân

Trong bài viết, Nguyên Anh dùng những từ ngữ hết sức xấc xược, bôi nhọ, xúc phạm, phủ nhận những công lao của Đảng, Bác Hồ nói chung, liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Y cho rằng Đảng ta “thoát thai từ những kẻ vô thần thì hầu như toàn bộ đảng viên đều là những thành phần bần cố nông thất học” cho nên “không bao giờ tin vào tôn giáo mà chỉ tin vào bạo lực nòng súng, tin vào các triết lý rừng rú thời kỳ tiến hóa mạnh được yếu thua”. Đối với Bác Hồ, y dùng những từ ngữ bôi nhọ, xúc phạm như “tên lãnh tụ”, “tên hồ” hay “Đạo hồ, đạo Hẹ”. Y coi Đảng ta là thứ tôn giáo duy nhất ở Việt Nam, đó là “Đạo Đảng”, “chỉ còn một loại đạo hiện diện, thường trực, thường xuyên, là đạo đảng mà người dân trong nước bắt buộc phải nghe theo hàng ngày, phải tin theo những gì đảng nói và không được nói lại, phê bình, chỉ trích ngược lại với chủ trương, đường lối mà đảng đã đề ra”.

Công lao của Đảng, Bác Hồ với dân tộc ta được nhân dân ta và nhân loại tiến bộ thừa nhận. Đảng, Bác Hồ luôn xác định, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, thực hiện “lương giáo đoàn kết”, thực sự tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người. Chính vì thế, trong sự nghiệp cách mạng, các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, có những đóng góp xứng đáng vào những thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Nhiều chức sắc, tín đồ, cơ sở tôn giáo đã tích cực tham gia các phong trào, hành động cách mạng, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao. Đảng, Bác Hồ luôn tin và phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo cả trong việc Đạo lẫn việc Đời nên được các tổ chức tôn giáo trong và ngoài nước tôn trọng, thừa nhận. Việc Việt Nam được bầu vào Ủy ban Nhân quyền của Liên Hợp Quốc lần thứ hai là do những nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong bảo đảm dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo chứ không phải là “lừa bịp thế giới”.

Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là một tôn giáo mà là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo toàn diện, trong đó có việc “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”. Việc thừa nhận, tin tưởng, đoàn kết, nỗ lực, phấn đấu thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là đáp ứng với nguyện vọng của nhân dân ta. Vì thế, xuyên tạc Đảng là “Đạo Đảng”, phủ nhận công lao của Đảng, Bác Hồ là điều không thể chấp nhận được. Chỉ những kẻ vô ơn, tay sai, bán nước, “Việt gian”, “Giáo gian” mới có những lời lẽ bôi nhọ, xấc xược như vậy!

Thứ hai, xuyên tạc tự do tôn giáo và quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam

Y cho rằng, các tôn giáo ở Việt Nam bị “o ép, bách hại, là chuyện đã lâu chứ không phải mới xảy ra gần đây”. Đối với cái gọi là “Tin Lành Đề Ga” hay “Tin Lành Tây Nguyên” thì bị “cấm công khai” hay “đàn áp mạnh”. Với Công giáo thì “xâm nhập vào thượng tầng lãnh đạo để chi phối các giáo xứ cấp dưới”. Với Phật giáo thì “cài cắm, chi phối hoàn toàn”, còn với những tổ chức “không chịu nằm trong sự điều hành của Đảng” thì luôn bị “kiểm soát”, “ngăn cấm”, “rình mò và sách nhiễu”, dễ bị “tấn công hoặc ngăn chặn những hoạt động tôn giáo”. Với Đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo bị cấm “bán chính thức”. Còn với “những tôn giáo mới phát triển và du nhập vào Việt Nam, các tôn giáo nằm trong tầm ngắm đều bị cô lập và khó phát triển tín đồ”. Mưu đồ của Nguyên Anh là hướng lái dư luận nhận thức sai lệch về tình hình tôn giáo ở Việt Nam.

Với các tôn giáo, tổ chức tôn giáo được công nhận, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cả việc Đạo và việc Đời. Hiện nay, Nhà nước đã công nhận 36 tổ chức tôn giáo, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 04 tổ chức và 01 pháp môn tu hành thuộc 16 tôn giáo với trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm khoảng 27% dân số cả nước), hơn 54 nghìn chức sắc, 135 nghìn chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự. Đây là các tôn giáo, tổ chức tôn giáo mà các thế lực thiếu thiện chí không thừa nhận, gọi là “tôn giáo quốc doanh”, làm “tay sai” cho Đảng ta.

Với các tôn giáo, tổ chức tôn giáo chưa được Nhà nước công nhận, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, hệ thống chính trị các cấp hướng dẫn họ hoạt động theo quy định của pháp luật, địa phương, hỗ trợ về mọi mặt, nhất là mặt pháp lý, xét, công nhận, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Đồng thời, chúng ta cũng có các quy định nhằm chấn chỉnh, xử lý khi họ có những sai phạm, vi phạm quy định của pháp luật. Đây cũng là điều mà các thế lực thù địch, phản động vu cáo Đảng, Nhà nước “kiểm soát”, “sách nhiễu”, cấm “bán công khai” về tôn giáo ở Việt Nam.

Với các tổ chức đội lốt, giả danh tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi, chống phá cách mạng, Đảng, Nhà nước ta kiên quyết đấu tranh, nghiêm trị. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Đây cũng là những kẻ mà các thế lực thiếu thiện chí cho là đại diện những “tổ chức tôn giáo độc lập”, vu khống Đảng, Nhà nước ta phân biệt, đối xử, luôn “đàn áp”. Những tổ chức này thường có những hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, câu kết chặt chẽ với các thế lực phản động ở nước ngoài tán phát các tài liệu phản động, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tập hợp lực lượng chống đối, gây rối, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống xã hội nói chung, sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào có đạo nói riêng. Họ bị xử lý vì vi phạm pháp luật, không phải vì họ theo hay không tôn giáo.

Như vậy, những nội dung trong bài viết “Tại Việt Nam chỉ có đạo “đảng” mà thôi” của Nguyên Anh hết sức phản động, bôi nhọ, xúc phạm Đảng, Bác Hồ, xuyên tạc tự do tôn giáo ở Việt Nam, từ đó hướng lái dư luận nhận thức không đúng về tình hình tôn giáo, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo ở nước ta, chúng ta phải vạch trần, lên án và đấu tranh bác bỏ./.

Nhân văn Việt

 Tối nay ngày 16/04, cơ quan chức năng thông tin tạm giữ đối tượng Đường Văn Thái về hành vi xâm nhập trái phép vào Việt Nam tại khu vực thuộc Hà Tĩnh. Được biết, Thái là đối tượng chống phá kỳ cựu đã bị Việt Nam trục xuất và hiện đang bổ trốn tại Thái Lan. Vậy Đường Văn Thái lẻn về Việt Nam làm gì?

Đường Văn Thái từng làm việc cho Phòng Quản lý đất đai & Giải phóng mặt bằng huyện Đông Anh, Hà Nội. Năm 2013, thi công chức nhưng không đỗ và nảy sinh bất mãn, Thái xin nghỉ việc. Khoảng thời gian từ 2016 – 2017, Đường Văn Thái theo học Thạc sĩ Quản lý đất đai tại Seoul, Hàn Quốc theo dạng tự túc. Sẵn tư tưởng cực đoan, trong quá trình đi học, Đường Văn Thái giao du kết thân với nhiều phần tử chống phá Nhà nước, dần dần bị tác động, chuyển hóa tư tưởng và từng bước sa ngã vào con đường chống phá Nhà nước. Cuối năm 2017, Đường Văn Thái về nước và trú ngụ tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau đó, Đường Văn Thái lần lượt tham gia các tổ chức hội nhóm bất hợp pháp như Hội nhà báo độc lập, Hội anh em dân chủ và tiến hành nhiều hoạt động chống Nhà nước. Đường Văn Thái khởi tạo và tham gia điều hành nhóm “Lều Của Đầy Tớ” trên mạng xã hội Facebook, thường xuyên đăng tải và phát tán những hình ảnh, thông tin sai lệch về nhà cửa, gia thế của các quan chức, lãnh đạo. Đường Văn Thái là một trong những gương mặt nổi cộm, lợi dụng sự cố này để kích động giáo dân gây rối, bạo loạn. Thái cùng các đối tượng chống phá khác trong “Hội anh em dân chủ” như “Thảo Teresa”, “Hòa TD”, “Lê Mỹ Hạnh”… kích động người dân mang cá chết ra rải đầy đường, chặn phương tiện đi lại trên quốc lộ gây ảnh hưởng rất lớn đến an ninh trật tự thời điểm đó.

Đường Văn Thái còn là nhân vật cốt cán của nhóm “Bạn hữu đường xa”. Nhóm này được các tổ chức phản động như: Đảng Việt Tân, Đảng dân chủ Việt, Chính phủ Việt Nam tự do tài trợ hàng trăm triệu để ngày tổ chức gây rối ở BOT Cai Lậy. Chính Đường Văn Thái cũng người cung cấp tiền lẻ cho nhóm “Bạn hữu đường xa”.

Sau khi bỏ trốn sang Thái Lan, Đường Văn Thái được Cao uỷ Liên hợp quốc về Người tị nạn cấp quy chế tị nạn 18 tháng vào ngày 03/04/2020. Hiện tại, Đường Văn Thái phải liên tục xin làm việc với Cao uỷ Liên hợp quốc về Người tị nạn để mong có cơ hội được một nước thứ ba bất kì tiếp nhận sau khi hết thời hạn ở Thái Lan. Và trong tháng 4 vừa qua theo một số nguồn tin, thì Đường Văn Thái đã có cuộc phỏng vấn với văn phòng Cao Ủy Tị Nạn Liên Hợp Quốc (UNHCR) tại Bangkok.

Trên trang “YouTube Thái Văn Đường” vào ngày 14/04 có thông tin, “Dự kiến 18 giờ 50 tối nay (14/04), Ngoại Trưởng Mỹ Antony Blinken sẽ hạ cánh tại phi trường Nội Bài, có thể thêm một TNLT sẽ được rước qua bển”. Trùng khớp với thời gian đó là việc đối tượng Đường Văn Thái bị phát hiên nhập cảnh trái phép ở Hà Tĩnh. Không ngoại trừ khả năng, đối tượng đang tìm mọi cách để tiếp cận Ngoại trưởng Mỹ, hòng dùng mọi cách để tìm cơ hội đến một nước thứ ba sau cuộc phỏng vấn mới đây nhất tại Thái Lan.

Đây cũng chỉ là gỉa định căn cứ theo những thông tin đã có. Mọi kết luận còn phụ thuộc vào cơ quan chức năng.

 Là một giáo sư, ủy viên các hội đồng lớn về văn học của Trung ương… nhưng lúc về già ông lại có những nhận định, đánh giá rất ấu trĩ, nhiều nội dung đã thể rõ bản chất phản động, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam…




Vừa qua, trên trang Facebook của Việt Tân có đăng bài bài thơ “không đầu, không cuối” của người có tên là Trần Đình Sử nói xấu mối quan hệ hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc. Vậy Trần Đình Sử là ai? Có đóng góp gì cho đất nước hay chỉ là những phần tử suy thoái “tư tưởng” …?

Nói đến Trần Đình Sử (sinh năm 1940), quê gốc (Quảng Phú, Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế), nguyên là một giáo sư, tiến sĩ Lý luận Văn học, công tác tại Trường Đại học Sư phạm Vinh, Đại học Sư phạm Hà Nội. Đã từng là Ủy viên Hội đồng lý luận phê bình Hội nhà văn học Việt Nam. Đồng thời cũng là thành viên của hội đồng thẩm định sách giáo khoa lớp 1 đang gây tranh cãi hiện nay.

Là một giáo sư, ủy viên các hội đồng lớn về văn học của Trung ương, mà có nhận thức ấu trĩ lúc về già như vậy, một trong những trí thức suy thoái về tư tưởng chính trị “đang công tác nói khác, lúc nghỉ hưu nói khác”. Những phát ngôn của ông thông qua bài thơ trên trang mạng “Việt Tân” đã thể rõ bản chất phản động, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trên rất nhiều trang thông tin điện tử nếu như ai đó muốn tìm hiểu về nhân vật này thì thật không khó khi có những dữ liệu về ông với những việc làm sai trái. Ví dụ, trên trang “Cánh cò” 14/10/2020 có bài viết “Về chuyện Giáo sư Trần Đình Sử phản giáo”, trong đó ghi rõ: “Trần Đình Sử là một trong 72 kẻ nhân sĩ trí thức thoái hóa đòi sửa đổi Hiến pháp 1992, trong đó, đòi đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN), đòi đổi tên nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN, đòi phi chính trị hóa các lực lượng vũ trang Nhân dân. Trần Đình Sử từng mượn tác phẩm “Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hạ bệ chế độ và nền tư pháp của ta ngày nay. Cách đây mấy tháng, Trần Đình Sử còn công khai ủng hộ các đối tượng trong “tổ Đồng Thuận” và các luật sư bào chữa cho các bị cáo tại phiên tòa”…

Hiện nay, chúng ta đều biết mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc là mối quan hệ chính thức, mật thiết, là mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, hai nước đã xác định phương châm 16 chữ thúc đẩy quan hệ hai nước trong thế kỷ 21 là “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và hai bên đã thỏa thuận đưa hai nước trở thành “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt””. Tính đến tháng 10/2022 Trung Quốc xếp thứ 4, trong 103 các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Đồng thời Trung Quốc là thị trường nhập khẩu hàng lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch ước tính 8,1 tỉ USD tính đến tháng 1/2023.

Do vậy, không thể nói mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc là bất lợi, là mất nước như cách hiểu sai lầm của Trần Đình Sử được. Đây là mối quan hệ hợp tác, đôi bên cùng có lợi, vì hòa bình, ổn định và phát triển. Chúng ta cần nâng cao cảnh giác và kịch liệt lên án trước những luận điệu xuyên tạc, lập lờ của những phần tử cơ hội chính trị như Trần Đình Sử, lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận để bóp méo các mối quan hệ, hợp tác quốc tế của Việt Nam./.

TRƯỜNG. SƠN - Nguồn: Đấu trường Dân chủ

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.