Hiển thị các bài đăng có nhãn Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiển thị tất cả bài đăng

 GS, TS Hoàng Chí Bảo đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu, tìm hiểu những câu chuyện, những triết lý sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với ông, việc nhận thức đúng đắn những giá trị khoa học, giá trị cách mạng, giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là góp phần trực tiếp và quan trọng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Loạt bài viết “Kiên quyết bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của GS, TS Hoàng Chí Bảo đã giành được giải Nhất cuộc thi viết “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” lần thứ hai do Báo Quân đội nhân dân phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (MB) tổ chức.

Loạt bài viết gồm 4 bài đã làm rõ tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn trong tư tưởng của Người, qua đó khẳng định tư tưởng và di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng, dân tộc và nhân dân ta. Nhân dịp này, phóng viên báo QĐND đã có cuộc trò chuyện với GS, TS Hoàng Chí Bảo để hiểu rõ hơn về niềm đam mê nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh của ông.

PV: Kính thưa GS, TS Hoàng Chí Bảo! Xuất phát từ đâu mà ông có niềm đam mê nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh?

GS, TS Hoàng Chí Bảo: Dấu hiệu rất quan trọng mà tôi cho là một bước ngoặt về tư tưởng đó là khi Bác mất, tôi được trực tiếp dự lễ tang Bác tại Quảng trường Ba Đình. Chính từ sau sự kiện ấy tôi đã dặn lòng nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh để có thể tìm thấy trong di sản của Người một bài học, một lẽ sống về nhân sinh. Và điều ấy theo đuổi tôi cho đến tận bây giờ.

Việc nghiên cứu, truyền bá tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo cho tôi một động lực tinh thần to lớn để thực hiện cho được những lời Bác dạy. Mặc dù đã có nhiều năm nghiên cứu và kể chuyện về Bác Hồ nhưng tôi vẫn luôn có nhiều áp lực trước mỗi buổi thuyết trình. Bởi kể cùng một câu chuyện về Bác nhưng trong những thời điểm khác nhau, đối tượng khác nhau và hoàn cảnh khác nhau đều có những điểm khác nhau rất rõ. Do đó đòi hỏi người kể phải nỗ lực, vượt qua những áp lực đó, phải bằng hiểu biết và cảm xúc thật sự, tự thuyết phục được chính mình thì mới mong có được sự đồng cảm của người nghe.


Giáo sư Hoàng Chí Bảo trong phòng làm việc.

PV: Là nhà nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, ông nhận thấy gì từ tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn trong tư tưởng của Người?

GS, TS Hoàng Chí Bảo: Tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn là một hệ thống chỉnh thế các đặc tính và giá trị trong tư tưởng và di sản Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Người là nhất quán và sáng tạo, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học đến những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của Việt Nam và của thời đại. Đây vừa là vấn đề ở tầm kinh điển, vừa là vấn đề thời sự lý luận - thực tiễn ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới toàn diện. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện bản lĩnh và trí tuệ của nhà tư tưởng Mác xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.

Việc kiên quyết bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là thái độ tôn trọng sự thật lịch sử, bảo vệ chân lý và đạo lý, giữ vững niềm tin khoa học, ra sức trau dồi đạo đức cách mạng trong sáng và rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, mà còn là mệnh lệnh của cuộc sống, là sự thôi thúc và giục giã từ trái tim của mỗi chúng ta.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.

PV: Vậy tính khoa học được thể hiện như thế nào trong tư tưởng Hồ Chí Minh?

GS, TS Hoàng Chí Bảo: Tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã giúp Người tìm ra câu trả lời đúng đắn nhất khi tiếp cận tư tưởng thiên tài của Lê-nin về quyền tự quyết của các dân tộc và phát hiện ra quy luật tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trở thành sợi chỉ đỏ, bao trùm, xuyên suốt hệ thống tư tưởng của Người. Với Việt Nam, yêu cầu giải phóng dân tộc đặt lên hàng đầu trên lập trường giai cấp công nhân. Và CNXH Việt Nam là quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tới CNXH, đó là một tất yếu lịch sử do thời đại quy định. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đó là đặc điểm to nhất của Việt Nam trên con đường tới CNXH. Hơn nữa, cách mạng trước hết phải có Đảng, Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, như con tàu không có bàn chỉ nam. Chủ nghĩa ấy, Người đã lựa chọn là chủ nghĩa Lênin, Mác-Lênin, đó là chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất.

Tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện rõ ở quan điểm phát triển, quan điểm đổi mới gắn liền với hội nhập quốc tế. Người có tư tưởng đổi mới, hội nhập từ rất sớm. Người đưa ra thông điệp với quốc tế và thế giới: “Việt Nam mong muốn là bạn của các nước dân chủ, Việt Nam quyết không thù oán với một ai”, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của quốc tế, thêm bạn bớt thù, kiến tạo môi trường hòa bình để phát triển. Vào năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trở lại, ở Việt Bắc, tại An toàn khu (ATK), Người viết hai tác phẩm quan trọng “Đời sống mới” và “Sửa đổi lối làm việc”. “Đời sống mới” giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa cái cũ và cái mới, nêu cao đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính trong đời sống hằng ngày của mỗi người, xây dựng lối sống mới, văn hóa mới... “Sửa đổi lối làm việc” là tác phẩm đầu tiên đề cập tới tư tưởng đổi mới trong điều kiện Đảng đã cầm quyền, xác định mặt, khâu xung yếu, trước hết là đổi mới lối làm việc của Đảng. Ngày nay, chúng ta gọi là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tính khoa học đặc biệt nổi bật khi Người nói về “xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, về “thực hành dân chủ, xây dựng nhà nước dân chủ-pháp quyền-nhân nghĩa” của dân, do dân, vì dân, thực hiện và phát huy quyền làm chủ thực chất của nhân dân; về công tác mặt trận, thực hành đại đoàn kết, thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí, tham ô.

PV: Xin GS cho biết đặc tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện trên những bình diện nào?

GS, TS Hoàng Chí Bảo: Trí tuệ khoa học, đạo đức cách mạng tận trung với nước, tận hiếu với dân, kết hợp nhuần nhuyễn chiến lược với sách lược và phương pháp, thấm nhuần chủ nghĩa lạc quan cách mạng, nắm bắt và dự báo sáng suốt xu thế của lịch sử... là những phẩm chất và nhân tố làm nên đặc tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đặc tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn nổi bật trên bình diện đạo đức. Người cách mạng, Đảng cách mạng phải suốt đời trau dồi cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là đối lập với tư tưởng cá nhân chủ nghĩa. Đảng chân chính cách mạng phải tiêu biểu, mẫu mực về đạo đức, văn hóa “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Trong lý luận về Đảng Cộng sản cầm quyền, Người trù tính sâu xa phải đặc biệt coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức, về văn hóa. Chỉ dẫn ấy của Hồ Chí Minh đang soi sáng cho Đảng và nhân dân ta trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện hiện nay.

Tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn biểu hiện đậm nét qua dũng khí tự phê phán và phê phán của người cách mạng và Đảng cách mạng về những khuyết điểm, sai lầm đã mắc phải, có thái độ khách quan khoa học trong phân tích, đánh giá thực trạng, xem xét kỹ lưỡng những nguyên nhân, hoàn cảnh dẫn đến những khuyết điểm, sai lầm đó để kiên quyết sửa chữa, thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên. Đó là phẩm chất cao quý, can đảm của những người cách mạng và Đảng cách mạng chân chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh rằng, tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất làm cho Đảng tiến bộ không ngừng, thành một Đảng chắc chắn, mạnh khỏe như người không có bệnh, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên giữ gìn và phát huy được tính cách mạng, tính tiền phong gương mẫu, được quần chúng tin tưởng và ủng hộ, giữ vững niềm tin với Đảng và thắt chặt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng.

Tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà chúng ta phải thấm nhuần và kiên quyết bảo vệ còn chính là lòng trung thành vô hạn với lý tưởng, mục tiêu cộng sản chủ nghĩa, biểu hiện trực tiếp ở sự kiên định lập trường, quan điểm cách mạng, kiên định con đường đi tới “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” của Việt Nam để đi đến cùng con đường đó, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho Tổ quốc, dân tộc và nhân dân Việt Nam. Đó là hoài bão, khát vọng mãnh liệt, suốt đời của Người.

PV: Chất nhân văn được coi là nguồn sáng làm nên tầm vóc tư tưởng Hồ Chí Minh. Xin ông cho biết rõ hơn về đặc tính này trong tư tưởng của Người?

GS, TS Hoàng Chí Bảo: Chất nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu trong cuộc đời, lối sống, nhân cách của Người, nổi bật là sự giản dị, đức hy sinh, hy sinh cả cuộc sống riêng tư để lo cho hạnh phúc của toàn dân tộc, của nhân dân.

Nhân văn tức là văn hóa, là hệ giá trị chân - thiện - mỹ, mà con người là giá trị cao nhất. Chất nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh kết tinh trí tuệ, tình cảm, đạo đức, lối sống của Người, từ nhận thức đến hành động, toát lên từ con người, cuộc đời, sự nghiệp của Người, thể hiện trong việc làm và ứng xử của Người qua các mối quan hệ, ở mọi nơi, mọi lúc, giữa mọi người, vô cùng phong phú, đa dạng, biểu cảm.

Một nét đặc sắc của tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh là hết lòng nâng niu giá trị con người, tự do và nhân phẩm con người, tin cậy vào những gì tốt đẹp của con người sẽ nảy nở và hoàn thiện thông qua giáo dục và tự giáo dục. Ở đời, con người là con người đời thường, không có ai là thần thánh cả. “Nhân vô thập toàn”, ai cũng có cái hay và cái dở, cái tốt và cái xấu. Phải làm sao cho cái hay, cái tốt nảy nở như hoa mùa xuân, cái xấu, cái dở sẽ mất dần đi. Phải thức tỉnh con người, có khát vọng sống, vươn tới cái tốt đẹp. Phải có sự cảm thông, chia sẻ, động viên, giúp đỡ, có lòng bao dung, độ lượng vĩ đại. Nghiêm với mình, rộng lòng khoan thứ với người, đó là thái độ nhân văn cao quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh là thái độ đối với nhân dân, là quan điểm quần chúng, suốt đời gần dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân để tận tụy phục vụ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng, đồng thời là lãnh tụ của dân tộc, của nhân dân. Người dạy cán bộ, chiến sĩ quân đội “Trung với Đảng, hiếu với dân”, “Trung với nước, hiếu với dân”, “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, từ tướng lĩnh tới binh sĩ phải hiểu nhân dân là nền tảng của quân đội, nhân dân là cha mẹ của bộ đội, quân và dân như cá với nước...

Tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh là kết tinh và tỏa sáng từ đặc tính khoa học và cách mạng của Người, hội tụ thành văn hóa Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa nhân văn Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết hợp hài hòa tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người.

PV: Xin trân trọng cảm ơn giáo sư!

NGUYỄN THỰC - Nguồn: QĐND

 

Chủ nghĩa Mác – Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến quyền của quần chúng nhân dân với những người lãnh đạo của mình.

Theo quan điểm của Lênin, nhân dân có quyền cử ra cũng như có quyền thay đổi và kiểm tra, hiểu rõ về các hoạt động của những người lãnh đạo. Lênin từng chỉ rõ: “Quần chúng phải có quyền được tự mình cử ra những người lãnh đạo có trách nhiệm. Quần chúng phải có quyền được thay đổi những người lãnh đạo của mình, phải có quyền được hiểu rõ và kiểm tra mỗi một bước nhỏ nhất trong hoạt động của những người đó”.

Là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định “Đảng là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Tư tưởng ấy xuyên suốt quá trình ra đời, trưởng thành, phát triển, lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam của Đảng cũng như hệ thống chính trị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào – đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Người chỉ rõ: “Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân”. Ngày 24 – 1 – 1947, trong Thư chúc Tết đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ai cũng biết rằng; trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ làng xã đến toàn quốc những người chức trách đều do dân cử ra. Dân tin cậy ai thì người ấy trúng cử và bổn phận những người trúng cử là làm đầy tớ công cộng cho dân chứ không phải làm quan phát tài”.

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: để Đảng, Chính phủ thực hiện tốt nhiệm vụ của mình với nhân dân thì các tổ chức Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước phải thật sự vì nhân dân phục vụ. Nói chuyện với anh em công chức Thủ đô vào ngày 30 – 11 – 1954, Người nhấn mạnh: “Bất kỳ ở địa vị nào, làm công việc gì, chúng ta đều là đầy tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy, chúng ta cần phải cố gắng thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. Tháng 3 – 1947, khi viết về Đời sống mới, Hồ Chủ tịch yêu cầu: “Cán bộ của làng phải là người trong sạch, công bình, thạo việc, có thể làm gương cho dân làng; có thể hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung”.

Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước phải luôn trung thực với nhân dân, không được giấu giếm nhân dân, phải để nhân dân hưởng quyền được biết về công việc của Đảng, của Chính phủ, quyền kiểm tra giám sát, thụ hưởng theo đúng quy định của Đảng, của Nhà nước, của pháp luật. Đây phải thật sự là việc cần thiết, sự cầu thị của Đảng, Nhà nước với nhân dân. Ngày 10 – 10 – 1954, trong Lời kêu gọi nhân dân Thủ đô giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu nguyện vọng của Chính phủ là rất mong được nhân dân giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình, là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến quyền của công dân trong việc tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới được thành lập và trong bối cảnh kháng chiến toàn quốc cam go, ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thẳng thắn nêu rõ vấn đề người dân có quyền giám sát cán bộ để phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực. Ngày 10 – 1 – 1946, phát biểu trước nông dân và điền chủ tỉnh Hưng Yên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nước ta thời Pháp thuộc, thực dân Pháp lấy tiền quỹ để đắp đê, nhưng chúng chỉ bỏ vào việc đắp đê rất ít, còn bỏ vào túi chúng. Bây giờ ta được độc lập, công việc đắp đê không phải là việc riêng của Chính phủ mà là của tất cả mọi quốc dân. Dân chúng có quyền kiểm soát việc làm để đề phòng những việc nhũng lạm có thể xảy tới”. Khi bàn về vấn đề Cần kiệm liêm chính, vào khoảng tháng 6 – 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: “Quan tham vì dân dại. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm cũng phải hóa ra LIÊM. Vì vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ Liêm”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường xuyên yêu cầu, động viên nhân dân  cần phải thực hiện tốt quyền của mình đối với Đảng, Nhà nước. Người nhắc nhở nhân dân phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả mối quan hệ hữu cơ giữa quyền và nghĩa vụ, quyền phải đi liền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân. Trong bài báo Đạo đức công dân đăng trên Báo Nhân Dân ngày 15 – 1 – 1954, Người viết: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”. Người chỉ rõ: công dân phải tuân theo pháp luật Nhà nước, kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung; phải đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung. Đồng thời công dân phải hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng và bảo vệ Tổ quốc.

Những tư tưởng trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam và hệ thống chính trị quán triệt, triển khai thực hiện tích cực, hiệu quả trên thực tế lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Qua đó, Đảng, Nhà nước, các tổ chức, cơ quan, đơn vị cũng như cán bộ, đảng viên đã ngày càng phấn đấu rèn luyện để xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

Trong khi đó thì thật là vô lý khi các thế lực thù địch, thế lực xấu trắng trợn chống phá mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân và nhân dân với Đảng của mình. Chúng xuyên tạc rằng Đảng độc tài, bóp nghẹt mọi quyền lợi của người dân; Đảng chỉ lo lợi ích của Đảng, bỏ mặc nhân dân đói khổ; nhân dân bất bình, mất hết niềm tin vào Đảng. Tháng 3 – 2023 vừa qua, một đối tượng xấu lu loa rằng sở dĩ ở Việt Nam chưa đoàn kết được là: “vì những quyết định tự tung tự hứng” của Đảng “mà tình trạng chia rẽ, mất đoàn kết giữa dân và Đảng mở rộng…” và “càng sống lâu, Đảng càng chia rẽ dân tộc và gây ra đổ vỡ, tụt hậu cho đất nước”…

Sự chống phá trên của các thế lực thù địch, thế lực xấu không đánh lừa được ai và chỉ làm cho dư luận hiểu rõ thêm bản chất xấu độc của những thông tin chúng đưa ra, đồng thời củng cố, tăng cường quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của chúng mà thôi.

Trong tình hình mới của cách mạng nước ta hiện nay, quyền của nhân dân càng được Đảng, Nhà nước quan tâm. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; Nghị quyết Trung ương năm, khóa XIII, đề ra nội dung rất cụ thể: “Xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa tổ chức cơ sở đảng, đảng viên với nhân dân; lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên”.

Thực tế cách mạng Việt Nam thời gian qua cho thấy: những nội dung quan trọng liên quan đến quyền, nghĩa vụ của nhân dân đã luôn được tiến hành tích cực, có hiệu quả từ hai phía, nhân dân tự nguyện, tự giác và Đảng, Nhà nước tạo thuận lợi để nhân dân thực hành tốt quyền và nghĩa vụ của mình. Mỗi người chúng ta hãy tin tưởng, chờ đợi và tích cực cùng “Người đầy tớ trung thành của nhân dân” thực hiện tốt nhất phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”./.

Công Minh - Nguồn: Hương Sen Việt

 Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, tiêu ngữ "Độc lập-Tự do-Hạnh phúc" gắn liền quốc hiệu Việt Nam suốt 75 năm qua.


Nhân kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, VnExpress phỏng vấn PGS.TS Lý Việt Quang - Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) về tư tưởng "Độc lập-Tự do-Hạnh phúc" được nêu trong bản Tuyên ngôn độc lập vang lên tại quảng trường Ba Đình mùa thu năm 1945.

PGS. TS Lý Việt Quang - Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Ảnh: Hoàng Thuỳ

- Theo ông, đâu là ngọn nguồn của tư tưởng về quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc được nêu trong bản Tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước CHXHCN Việt Nam?

- Ngọn nguồn của tư tưởng về quyền tự do, độc lập trong bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất chống ngoại xâm - mạch nguồn xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước làm cho dân tộc luôn đứng vững trước những khó khăn, thách thức, không cam chịu khuất phục trước bất cứ thế lực cường quyền nào.

Cùng với mạch nguồn đó, trong quá trình tìm đường cứu nước và trở về lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chắt lọc được nhiều giá trị tinh hoa của nhân loại. Từ tư tưởng của các nhà dân chủ tư sản, như trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp (1791), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc không phải của riêng chủ nghĩa tư bản hay riêng dân tộc nào, mà là giá trị chung của toàn thể nhân loại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng tiếp cận và đánh giá cao chủ nghĩa Tam dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của nhà cách mạng Trung Quốc thời kỳ cận đại Tôn Trung Sơn; cho rằng chủ nghĩa Tam dân có nhiều điểm phù hợp với cách mạng Việt Nam.

Đặc biệt, khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh được tiếp cận với học thuyết về sự giải phóng triệt để con người. Lý tưởng lớn nhất của con người là sự giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công, thực hiện sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

Bên cạnh những mạch nguồn lý luận trên, cội nguồn của tư tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập còn xuất phát từ khát vọng của dân tộc Việt Nam trong gần một thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân và phát xít. Đất nước bị xóa tên trên bản đồ thế giới, người dân kiệt quệ, lầm than. Thông qua Hồ Chí Minh, yêu cầu của lịch sử, của dân tộc Việt Nam đã được đáp ứng, đó là tìm con đường để giải phóng triệt để dân tộc, làm cho dân tộc được hồi sinh trở lại.

- Sáu chữ "Độc lập-Tự do-Hạnh phúc" đã đi liền cùng quốc hiệu Việt Nam trong 75 năm qua. Điều này có ý nghĩa như thế nào?

- Đây là sáu chữ dành cho tất cả mọi người, không phân biệt nam hay nữ, giàu hay nghèo, sang hay hèn, không phân biệt miền xuôi hay miền ngược, tôn giáo, trở thành giá trị chung của dân tộc Việt Nam trong suốt 75 năm qua.

Độc lập, tự do, hạnh phúc là lý tưởng, để đi đến được là cả một hành trình. Việt Nam đã đi được những bước rất dài. Từ đất nước bị xóa tên trên bản đồ thế giới, trở thành quốc gia có chế độ chính trị độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và tự quyết định con đường phát triển của mình. Non sông thống nhất, liền một dải từ Bắc vào Nam.

Quyền tự do của người dân đã được khẳng định và thể chế hoá bằng Hiến pháp, pháp luật. Những giá trị hạnh phúc thực sự cũng đã được mang lại cho người dân trên mọi miền Tổ quốc. Hạnh phúc trước hết là cảm nhận chủ quan của mỗi cá nhân, nhưng nền tảng cho hạnh phúc cá nhân là đất nước hòa bình, các lĩnh vực kinh tế - xã hội đều phát triển; GDP bình quân đầu người tăng từ 1.332 USD/người năm 2010 lên khoảng 3.000 USD/người năm 2020; công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được nhiều thành tựu... Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam được xếp hạng vào nhóm cao trên thế giới.

Lý tưởng là bất biến, nhưng chỉ số để đo thì cần được nâng lên theo tầm thời đại. Hạnh phúc trước đây với nhiều người chỉ là được ăn những bữa cơm không độn khoai, sắn, nhưng hạnh phúc bây giờ không còn đơn giản như vậy. Vì thế, chúng ta đang trong hành trình nỗ lực không ngừng để đạt đến lý tưởng của độc lập, tự do, hạnh phúc, với mục tiêu được cụ thể hóa là "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu

- Theo ông, cần làm những gì để tiếp tục thực hiện và phát triển lý tưởng này?

- Độc lập, tự do, hạnh phúc là giá trị chung của nhân loại, cũng là giá trị mà Việt Nam hướng đến từ khi nước Việt Nam mới ra đời. Để tiếp nối giá trị đó có nhiều công việc cần làm, trong đó theo tôi cần tập trung vào ba việc cơ bản.

Trước hết, chúng ta phải khẳng định và kiên định con đường đã đi là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã được minh chứng bằng thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, thắng lợi vẻ vang của 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới 35 năm qua. Con đường này cũng hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của dân tộc, cũng như với xu hướng phát triển của thời đại.

Thứ hai, để có được thắng lợi của cách mạng Việt Nam thì người lãnh đạo phải đủ tâm, đủ tầm, vừa là đạo đức, vừa là văn minh để quy tụ, thuyết phục, đủ sức tổ chức, lãnh đạo nhân dân. Người lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản Việt Nam phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện tiên quyết cho thắng lợi của cách mạng, bởi lãnh đạo mà sai thì đất nước sẽ đi sai đường, nên người lãnh đạo phải là tinh hoa, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, phẩm giá của dân tộc.

Bên cạnh nhiệm vụ xây dựng đất nước, Đảng cũng phải chú trọng nhận diện và phòng chống hữu hiệu nguy cơ suy thoái, bởi vì bất kỳ đảng nào nắm chính quyền cũng có nguy cơ bị quyền lực làm cho tha hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc, phải chú ý căn bệnh chủ nghĩa cá nhân mà thời kỳ hiện đại có rất nhiều biến tướng. Tại Hội nghị Trung ương 4 (khoá XII), Đảng cũng đã chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái, trong đó 9 biểu hiện về tư tưởng chính trị, 9 biểu hiện về đạo đức lối sống và 9 biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá".

Đặc biệt, Đảng phải chống căn bệnh chủ nghĩa cá nhân vì nó ẩn nấp trong mỗi con người, chờ khi người ta hoặc là thắng lợi, hoặc là sai lầm, thì mới xuất đầu lộ diện. Thắng lợi thì chủ quan, tự mãn, kiêu ngạo, còn sai lầm thì bi quan, chán nản. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, chủ nghĩa cá nhân bịt mắt những nạn nhân của nó. Vậy nên mới có những người được Đảng, Nhà nước tín nhiệm giao giữ những cương vị cấp cao, có công lao, cống hiến, nhưng trên cương vị đó lại mắc những sai lầm, khuyết điểm để bị kỷ luật, thậm chí bị truy tố.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nhắc nhở, một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được quần chúng yêu mến và ca ngợi nếu như lòng dạ không trong sáng nữa, nếu như sa vào chủ nghĩa cá nhân. Đó là sự cảnh tỉnh rất sâu sắc, là chân lý của mọi thời đại mà Đảng cầm quyền phải luôn nhớ.

Thứ ba, một việc quan trọng nữa là nếu chỉ có Đảng, đường lối, con người đi tiên phong thôi thì không đủ, mà cần phải có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Vì vậy, Đảng phải tổ chức được lực lượng của quần chúng, xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cách mạng tháng Tám thành công lúc chỉ có khoảng gần 5.000 Đảng viên, đó là nhờ sự ủng hộ của nhân dân. Đồng thời, trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải mở rộng ra thế giới, thực hiện đoàn kết quốc tế rộng rãi, tranh thủ được sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, vì trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá, không một quốc gia nào có thể đứng ra ngoài sự phát triển chung của nhân loại.

- Cảm xúc của ông mỗi lần đọc lại Tuyên ngôn độc lập vào dịp mùa thu đến?

- Mỗi dịp 2/9, đọc lại bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi cảm thấy tự hào là người Việt Nam, một dân tộc trong 75 năm qua đã quyết "đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập".

Tôi cũng biết ơn sâu sắc đối với sự hy sinh, cống hiến của biết bao anh hùng, liệt sĩ, những người đi trước để có cuộc sống hoà bình, hạnh phúc của đất nước ngày hôm nay.

Trước đây cha ông giành được độc lập thì bây giờ thế hệ chúng ta phải làm cho nền độc lập, tự do đó được phát triển. Trước đây chỉ cần đánh thắng đế quốc, thực dân, nhưng bây giờ phải đánh thắng đói nghèo, lạc hậu để Tổ quốc giàu mạnh, có được vị thế xứng đáng trên trường quốc tế, đời sống của người dân ngày càng hạnh phúc, ấm no. Tôi tin rằng đó cũng là suy nghĩ của rất nhiều người thế hệ ngày nay.

Hoàng Thùy (Vnexpress)

Bôi nhọ uy tín, hình ảnh lãnh tụ và phủ nhận vai trò của Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là mục tiêu chống phá trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Đặc biệt, khi cả nước kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đối tượng lại ráo riết, đẩy mạnh các chiến dịch “xóa thần tượng” thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau.

Trong những ngày Tháng 5 lịch sử, toàn Đảng, toàn dân ta nhớ về ngày sinh của Bác với tấm lòng trân trọng và vô cùng thành kính. Bác có công lao vô cùng to lớn, đó là đem lại sự hồi sinh cho dân tộc ta, đưa đất nước ta từ nô lệ, lầm than trở thành một đất nước độc lập, tự do. Nhưng cái to lớn và vĩ đại hơn cả là những tư tưởng đạo đức, nhân văn của Người mãi mãi tỏa sáng trong hành trình phát triển của nhân dân ta và nhân loại tiến bộ.




Tư tưởng-Đạo đức-Phong cách Hồ Chí Minh là một hệ thống chỉnh thể không tách rời, từ đặc trưng đến giá trị, từ nội dung đến hình thức, từ tinh thần đến phương pháp. Người biểu đạt bằng lời văn, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, có sức truyền cảm lớn, rất đỗi chân thành, đúng với con người, đời sống và cốt cách Hồ Chí Minh-một nhà tư tưởng Mác xít hiện đại, một bậc hiền triết, minh triết phương Đông, đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu.

Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào cõi vĩnh hằng, để lại nỗi tiếc thương vô hạn đối với đồng bào, chiến sỹ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Trước lúc ra đi, Bác đã để lại di chúc thiêng liêng, là tài sản vô giá mà kết tinh trong đó là những điều cốt lõi về tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, để cho mỗi cán bộ đảng viên và nhân dân các thế hệ sau học tập và làm theo, nhằm xây dựng một đất nước Việt Nam ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như mong muốn của Người.

DI CHÚC CỦA BÁC HỒ LÀ TÀI SẢN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC

Di chúc đã để lại những điều căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền và sự lãnh đạo, cầm quyền của đảng; về chăm lo đối với con người và thế hệ trẻ; về quản lý xã hội, chính sách xã hội, an sinh xã hội sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta giành thắng lợi. Di chúc là sự tổng kết lý luận và thực tiễn về sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân Việt Nam, là lý luận về đổi mới và tương lai phát triển của đất nước.

Tư tưởng Hồ Chí Minh được phản ánh trong di chúc, trước hết thể hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, nhân dân, các lực lượng vũ trang của ta trong việc đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, khẳng định niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng là giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, nam bắc sum họp một nhà. Người đặt niềm tin vào sự tất thắng đó: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh trong di chúc có tầm chiến lược, là những chỉ dẫn quan trọng cho Đảng trong việc hoạch định đường lối, phương hướng, xác định nhiệm vụ, kế hoạch, chính sách, chương trình hành động cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đưa đất nước phát triển bền vững.

Đạo đức Hồ Chí Minh là điểm nổi bật cả trong tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh. Đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong di chúc là đạo đức cách mạng với hệ chuẩn mực giá trị cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Đó cũng là đạo đức hành động, mà điểm đặc biệt nhấn mạnh là đạo đức và sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên trong điều kiện đảng cầm quyền. Đó là đạo đức trong quan hệ giữa đảng với nhân dân, giữa nhà nước với nhân dân, sự quan tâm chăm lo của đảng đối với giáo dục, rèn luyện đạo đức trong các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ tương lai của đất nước. Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Điều đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, đó là căn dặn Đảng ta phải chăm lo củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng để có đủ sức mạnh và uy tín của người cầm lái, dẫn đường cho quần chúng hướng theo. Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của đảng và của dân ta”. Người nêu rõ: “Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Theo Người, muốn có sự đoàn kết chân thành và thực sự lâu dài thì phải “thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò cầm quyền và trọng trách lịch sử của đảng, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ đảng viên trước đảng và trước nhân dân. Người căn dặn: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh giành cho thế hệ trẻ của đất nước tình yêu thương, sự quan tâm và niềm tin sâu sắc. Người căn dặn Đảng ta phải quan tâm chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng cho đời sau. Người nêu rõ: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Căn dặn Đảng và Chính phủ phải quan tâm tạo mọi điều kiện giúp đỡ chị em phụ nữ để họ tiến bộ và trưởng thành, đồng thời bản thân chị em phụ nữ cũng phải tích cực phấn đấu vươn lên đáp ứng với trách nhiệm của mình.

Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trăn trở, lo nghĩ nhiều về đoàn kết quốc tế, nhất là trước sự bất đồng giữa các Đảng Cộng sản anh em. Người coi đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa và các đảng anh em là điều kiện quan trọng đảm bảo cho phong trào cộng sản và công nhân đến toàn thắng.

Có thể nhận thấy rằng, di chúc của Bác thực sự là mẫu mực tuyệt vời về sự ứng xử, tinh tế và cao thượng của một vị lãnh tụ cách mạng thiên tài, người con ưu tú của dân tộc, sự khoáng đạt, cởi mở, hài hòa, nhân ái, vị tha, khoan dung, độ lượng và tình nghĩa, thủy chung sâu sắc. Đó là sự hoàn chỉnh chân - thiện - mỹ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động và cảm động, có sức cảm hóa lay động muôn triệu trái tim con người Việt Nam và nhân loại trên thế giới; phản ánh sâu sắc cách sống, sinh hoạt hết sức bình dị nhưng vô cùng cao quý, trọn đời vì nước, vì dân. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được đúc kết thật sâu sắc trong di chúc của Bác, những lời căn dặn của Bác trước lúc đi xa dành cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta vô cùng sâu sắc và quý báu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam trước mắt và lâu dài. Do vậy sẽ trường tồn mãi mãi theo thời gian để mỗi cán bộ đảng viên và nhân dân Việt Nam học tập và làm theo./.     

Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới-kỷ nguyên độc lập tự do cho nước nhà. Một chính quyền vừa thành lập, với rất nhiều khó khăn, thách thức, phải đối mặt thù trong, giặc ngoài, vì vậy, ngày 3-9-1945, Người đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bao gồm: khắc phục nạn đói; nạn dốt; giáo dục lại nhân dân với việc thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; bỏ ba thứ thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết và đặc biệt là phải tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.

Muốn chống tham nhũng, giữ được tiền của cho nhân dân, phải nhìn kỹ, hiểu thấu bản chất, nguồn gốc và tác hại của tham ô, lãng phí; phải hiểu kỹ lời dạy của Bác Hồ: chống tham ô, lãng phí là cách mạng, là dân chủ vì “Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ”, tham ô là đặc trưng, gắn liền với thực dân, phong kiến. Đấu tranh chống thực dân, phong kiến, xây dựng xã hội mới phải bao hàm cả đấu tranh chống tham ô, lãng phí. Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực thuộc về nhân dân, tất cả tài sản là của nhân dân. Nhân dân đóng góp mồ hôi, xương máu, tiền của cho công cuộc kháng chiến, xây dựng đất nước.
Vì vậy, hiện nay bảo vệ tài sản công, chống tham nhũng, lãng phí là bảo vệ tài sản của nhân dân, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “Phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”. Dân chủ tức là nhân dân làm chủ, cán bộ là người được giao quản lý tài sản để thực hiện các nhiệm vụ do nhân dân giao phó. Vì vậy, nhân dân có quyền và nghĩa vụ giám sát, phê bình cán bộ, đấu tranh chống mọi biểu hiện tham ô, lãng phí. Sự tham gia của quần chúng quyết định sự thành công của công cuộc đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí. Quần chúng tham gia tích cực, đông đảo thì cuộc đấu tranh càng mang lại hiệu quả cao.

Cứ mỗi dịp diễn ra những sự kiện trọng đại của đất nước, đặc biệt vào dịp Đảng ta tổ chức đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc thì các đối tượng thù địch và các phần tử cơ hội chính trị lại thực hiện các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta quyết liệt hơn. Mục đích của chúng là chống phá, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kích động gây chia rẽ nội bộ; bôi nhọ, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Chính phủ; phủ nhận thành quả của công cuộc đổi mới, làm xói mòn niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng. Để đạt được mục đích trên, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là internet để tiến hành tuyên truyền chống phá ta với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Ngày 17/9/2015 trên trang mạng danlambao, chúng đã đưa ra một quan điểm hết sức phản động:“Hồ Chí Minh sống cũng như khi đã chết là một tai họa hàng đầu đối với dân tộc Việt Nam”. Đây là một hành động vô liêm sỉ, bôi nhọ, phủ nhận tư tưởng, phong cách đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Một trong những vấn đề cấp bách hiện nay đối với mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng; đối với mỗi quần chúng của Đảng là phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần làm cho Đại hội XII của Đảng thành công tốt đẹp và sớm đưa Nghị quyết của Đại hội XII vào cuộc sống. Vì vậy, chúng ta phải làm việc hết sức mình, làm việc bằng cả trái tim, khối óc và bầu nhiệt huyết cách mạng, bằng ý thức tinh thần trách nhiệm, nghị lực và những hành động thiết thực, cụ thể, thật hiệu quả để xây dựng và bảo vệ Đảng, không được để các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị phá hoại Đảng, làm cho Đảng bị tổn thương, bị chia rẽ thành bè phái hoặc hình thành các phe nhóm, mất sức chiến đấu. Do đó, trong bất luận điều kiện hoàn cảnh nào, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên, nghiêm túc thực hiện phê bình và tự phê bình, thường xuyên củng cố sự đoàn kết, nhất trí cao trong Đảng, giữ cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh và mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thật sự trung thực, gương mẫu về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống; thực hiện tốt những điều quy định đảng viên không được làm; lấy lời căn dặn của Bác Hồ trong Di chúc làm phương châm hành động cách mạng: cán bộ, đảng viên phải giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng như “giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy ở chủ nghĩa Mác – Lê-nin con đường cứu nước và phát triển đúng đắn cho dân tộc ta, Người đã khẳng định: bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin. Tuy nhiên, các thế lực thù địch xưa nay vẫn luôn phủ định, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lê-nin, và cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sai lầm khi lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm cơ sở lý luận cho con đường phát triển của xã hội Việt Nam. Thế nhưng, họ đã lầm. Họ càng phủ nhận thì chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng được tôn vinh, tỏa sáng, khẳng định giá trị. Xét cả về mặt lý luận và thực tế cho thấy, chủ nghĩa Mác – Lê-nin là lý luận chính trị cơ bản, mang tính định hướng con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam.

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.