Thời gian gần đây, các đối tượng lừa đảo với nhiều chiêu bài “tung hoành” trên không gian mạng và qua các cuộc gọi, tin nhắn điện thoại, khiến nhiều người nhẹ dạ cả tin mất sạch tiền.


Công an Thành phố Hà Nội và Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh cảnh báo 20 hình thức lừa đảo qua mạng xã hội, điện thoại thường gặp, người dân cần lưu ý.


Trong giai đoạn đẩy mạnh và tăng tốc chuyển đổi số hiện nay, các đối tượng xấu đã lợi dụng sự bùng nổ về công nghệ thông tin, những tiện ích mà công nghệ thông tin mang lại để thực hiện nhiều vụ lừa đảo trực tuyến, chiếm đoạt tài sản có giá trị cao.

Theo Phó Cục trưởng Phụ trách Cục An toàn thông tin (Bộ TT&TT) Trần Đăng Khoa, hành vi lừa đảo trực tuyến thời gian qua phổ biến hơn. Việc lừa đảo đánh cắp thông tin cá nhân là bước đệm để thực hiện lừa đảo tài chính. Đối tượng lừa đảo lợi dụng tâm lý nhẹ dạ, cả tin hoặc đánh vào lòng tham để đạt mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bộ TT&TT đã thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt bảo vệ người dân trên không gian mạng như phát triển các trang thông tin, xử lý tin nhắn rác, lừa đảo (chongthurac.vn); trang cảnh báo an toàn thông tin Việt Nam (canhbao.khonggianmang.vn); cung cấp công cụ nhận diện lừa đảo trực tuyến, kỹ năng phòng, chống lừa đảo (congcu.khonggianmang.vn)…/.

Bàng Vuông tổng hợp

 Đúng vào dịp tuổi trẻ cả nước tổ chức các hoạt động chào mừng kỷ niệm 92 năm Ngày thành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn gia tăng chống phá với các luận điệu như: “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên”; nhiệm vụ của thanh niên là phải đứng lên đấu tranh “chống độc tài, đòi tự do, dân chủ đa đảng” (!)…


Có thể thấy, âm mưu lợi dụng “tự do, dân chủ” để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là vấn đề không mới, tuy nhiên lần này chúng chĩa mũi nhọn trực tiếp vào đối tượng thanh niên, cho thấy dã tâm nham hiểm của bọn chúng là rất lớn, hòng làm cho một số thanh niên thiếu bản lĩnh sẽ hoài nghi, dao động dẫn đến phai nhạt lý tưởng, xa hơn nữa là không tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, kích động chống phá chế độ.

Thực tiễn đã chứng minh, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng đảm bảo quyền tự do, dân chủ, lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân ở mỗi cấp, mỗi ngành, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này được khẳng định rõ tại  Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đối với thanh niên, Đảng ta luôn đặt niềm tin và đánh giá cao vai trò, vị trí và sứ mệnh to lớn của thanh niên trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng nhận thức rõ hơn về tính chính trị và tính xã hội quy định đối với hai chức năng của Đoàn Thanh niên là: “đội dự bị” của Đảng và “đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên”; Cả hệ thống chính trị quan tâm, chăm lo cho thanh niên và tổ chức đoàn, phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong phát triển kinh tế – xã hội; có cơ chế bầu cử hợp lý để tạo điều kiện cho thanh niên có đại diện của mình trong các cơ quan Nhà nước và cơ quan dân cử. Cùng với đó, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền tham gia và lắng nghe ý kiến của thanh niên. Đồng thời, cấp ủy, chính quyền các cấp đã quan tâm, tin tưởng giao nhiệm vụ, thử thách, tạo điều kiện, cổ vũ, động viên thanh niên và các tổ chức của thanh niên thực hiện các chương trình, dự án, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc. Từ những điều trên cho thấy, luận điệu cho rằng: “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên” là hoàn toàn sai trái, cần đấu tranh bác bỏ.

Luận điệu cho rằng thanh niên cần đấu tranh xóa bỏ chế độ “độc đảng” (Đảng Cộng sản Việt Nam), xây dựng chế độ “đa đảng” là không thể chấp nhận được. Bởi trước hết, một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng nghĩa với mất dân chủ, kém phát triển và  tự do, dân chủ không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng. Thực tế cho thấy, có không ít nước đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, chậm phát triển; ngược lại, có những nước chỉ có một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ được bảo đảm, kinh tế, xã hội phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được đảm bảo. Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, thử thách qua các giai đoạn cách mạng, thanh niên Việt Nam luôn chứng tỏ bản lĩnh sắt son niềm tin với Đảng, với chế độ, có tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm cao, dám dấn thân, đảm nhiệm việc mới, việc khó, sẵn sàng đi tới bất kỳ đâu khi Đảng và đất nước cần. Cho nên, luận điệu “xúi giục”, “kêu gọi” thanh niên đấu tranh đòi “tự do, dân chủ đa đảng” là đi ngược với thực tế và nguyện vọng của thanh niên.

Từ những vấn đề trên cho thấy, âm mưu xúi giục thanh niên đòi “tự do, dân chủ đa đảng” là hết sức thâm độc, nham hiểm và trắng trợn của các thế lực thù địch. Do vậy, mỗi người dân nói chung, thanh niên nói riêng phải nâng cao nhận thức, cảnh giác, tỉnh táo, nhận diện, đấu tranh kịp thời; đồng thời, tin tưởng tuyệt đối vào đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước./.

Nhân văn Việt

 Tháng Ba, đánh dấu sự kiện ngày 09/3, Việt Nam công bố cuốn “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”, minh bạch hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Nhà nước Việt Nam và thành tựu bảo đảm quyền tự do tôn giáo ở nước ta trong thời gian qua. Cuốn sách, một lần nữa khẳng định, Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng; “không một cá nhân, tổ chức tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị ngăn cấm”.



Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết

Từ khi ra đời, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chính sách bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, tôn trọng và tạo mọi điều kiện thuận lợi để mọi người cũng như các tôn giáo hoạt động và tham gia đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với tinh thần “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”, Đảng ta rất coi trọng chính sách đoàn kết và hòa hợp giữa các tôn giáo, bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật.

Sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Nhà nước Việt Nam không ngừng hoàn thiện tư duy lý luận về tôn giáo và quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo. Nghị quyết 24 (1990) của Bộ Chính trị, khoá VI về công tác tôn giáo và Nghị quyết 25 (2003) của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về công tác tôn giáo đã có những bước đổi mới có tính đột phá, thừa nhận “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân; đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” và “tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đây là những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện một cách rõ ràng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không chỉ khẳng định sự “tồn tại lâu dài” của tôn giáo, mà còn phát triển lên mức cao hơn, làm rõ mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với quan điểm đó, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng đã được minh định theo hướng “vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo; công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị”.

Cũng xuất phát từ quan điểm đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam đều được luật hoá trong các bản Hiến pháp và các bộ luật liên quan với đầy đủ bình diện “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm”, “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” (Hiến pháp 2013, Điều 24).

Hoà hợp, bình đẳng giữa các tôn giáo

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân không chỉ tồn tại trên các văn bản pháp luật, mà đã được bảo đảm trên thực tế bằng những căn cứ rất thuyết phục. Nhà nước bảo đảm sự đa dạng, hòa hợp và bình đẳng tôn giáo và không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo được tham gia vào đời sống chính trị xã hội của đất nước. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, ở Việt Nam không có tôn giáo nào giữ vị trí độc tôn mà các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, không bị phân biệt đối xử. Các tôn giáo chung sống hài hòa, đoàn kết, gắn bó đồng hành với dân tộc, không có xung đột sắc tộc, tôn giáo. Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động một cách bình thường; các thủ tục công nhận các tổ chức tôn giáo, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, thành lập cơ sở đào tạo, mở lớp bồi dưỡng tôn giáo, xuất bản kinh sách, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo… được thực hiện thuận lợi theo qui định của Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo và pháp luật.

Nhà nước Việt Nam cũng khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo phát huy nguồn lực tham gia các hoạt động an sinh xã hội như giáo dục, y tế và các hoạt động từ thiện nhân đạo, bảo trợ xã hội. Vấn đề đất đai liên quan đến tôn giáo luôn được Nhà nước quan tâm giải quyết.

Đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Là quốc gia đa sắc tộc với 54 dân tộc anh em chung sống hòa bình trải dài trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, nhu cầu chính đáng về tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc ít người đã được chính quyền các cấp quan tâm, bảo đảm và hướng dẫn giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đối với người chấp hành án phạt tù cũng từng bước được quan tâm thể hiện sự nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc thực thi các Công ước quốc tế về quyền con người.


Trong tiến trình thực hiện chủ trương, chính sách đối ngoại “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đã và đang phấn đấu trở thành “công xưởng” và là “Trung tâm sáng tạo” của thế giới thu hút nhiều lao động nước ngoài đến đầu tư, làm việc, học tập trong đó nhiều người là tín đồ các tôn giáo. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam; quan tâm, tạo điều kiện cho họ có nơi sinh hoạt tôn giáo theo qui định của pháp luật Việt Nam.

Hòa trong dòng chảy lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam, với sức mạnh được hun đúc từ mạch nguồn văn hóa: lòng yêu nước nồng nàn, ý thức độc lập dân tộc, tự chủ, tự cường, đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “thương người như thể thương thân”, các tôn giáo ở Việt Nam đều có đóng góp nhất định trong những mức độ khác nhau vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự đóng góp đó, trước hết, thể hiện ở đường hướng hành đạo của mỗi tôn giáo: “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” (Phật giáo); “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào” (Công giáo); “Sống Phúc âm, phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc” (Tin Lành)… Đường hướng hành đạo của các tôn giáo tuy có những điểm khác nhau, nhưng nhìn chung đều nói lên sự gắn bó với dân tộc, với Tổ quốc Việt Nam thân yêu. Có thể nói, các tôn giáo ở Việt Nam vừa là một bộ phận cấu thành của nền văn hóa, đồng thời là nguồn lực quan trọng, góp phần phát triển đất nước. Nhiều điểm tương đồng giữa tôn giáo với xã hội, giữa giáo lý, giáo luật với pháp luật Nhà nước về mục tiêu giải phóng con người, chống áp bức bất công của cách mạng Việt Nam và của các tôn giáo, đã và đang được phát huy cao độ.

Không chỉ đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, tôn giáo còn là một bộ phận cấu thành của văn hoá Việt Nam. Những giá trị văn hóa tốt đẹp, tiến bộ của tôn giáo đã góp phần tạo nên sự phong phú, đặc sắc của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Bằng những giáo lý nhân văn, bác ái của mình, các tôn giáo ở Việt Nam đã phát huy, lan toả các giá trị văn hóa, đạo đức nhân văn, bác ái ấy vào đời sống xã hội, góp phần tạo nên những chuẩn mực đạo đức, văn hóa, ứng xử nhân văn, nhân ái của dân tộc ta, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước, cụ thể hóa thành những hành động thiết thực, cứu người, giúp đời, chung tay cùng đồng bào tôn giáo và đồng bào không có tôn giáo xây dựng đất nước.

Tuy nhiên, trong dòng chảy lịch sử đất nước, các tôn giáo ở Việt Nam không phải chỉ có những “điểm sáng”, mà đôi khi có cả “ánh sáng và bóng tối xen lẫn”. Đó là điều đáng tiếc. Nhưng, chúng ta tin tưởng rằng, sự tương đồng trong mục tiêu phấn đấu vì con người, vì sự phồn vinh của đất nước, vì “mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, tín đồ các tôn giáo, trước hết là con dân Việt, công dân Việt, sẽ sống “tốt đời, đẹp đạo”, mãi tiếp bước trên con đường “đồng hành với dân tộc”, vượt lên mọi thách thức và cả những âm mưu đen tối của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam./.

Tạp chí Nhân quyền Việt Nam số tháng 3/2023

 

Chúng ta đã biết, Điều 1, Công ước của Liên hiệp Quốc về các quyền dân sự và chính trị (1966) của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, đã ghi rõ: Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá. Xét thấy nội dung của Công ước phù hợp với lợi ích chung của nhân loại nên Việt Nam đã sớm phê chuẩn và tham gia Công ước này.

Thực tế, xã hội dân sự luôn được các thế lực thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta. Vừa qua, trên trang “Vietnamthoibao”, kẻ tự xưng Lynn Huỳnh đã phát tán tài liệu: “Xã hội dân sự vẫn là cụm từ nhạy cảm?” để xuyên tạc Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Y cho rằng: “Theo quy định tại khoản 2, điều 14, Hiến pháp năm 2013 thì bất cứ quyền nào cũng có thể bị hạn chế trong những trường hợp cụ thể”. Trong khi, khoản 2, điều 14, Hiến pháp năm 2013 quy định: Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Hơn nữa, Lynn Huỳnh còn lợi dụng tự do, dân chủ để kích động: “Có những quyền con người không thể bị hạn chế thực hiện vì bất cứ lý do gì, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, kể cả trong những trường hợp cần thiết như quy định của Hiến pháp năm 2013”. Thực chất, Lynn Huỳnh đã lợi dụng các tổ chức thành lập và hoạt động bất hợp pháp để cổ súy cho kiểu tự do, dân chủ vô hạn độ, tự do dân chủ bất chấp tất cả, nhằm hướng lái dư luận, kích động những người kém hiểu biết, những phần tử bất mãn, quá khích chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần hết sức cảnh giác, tỉnh táo để không mắc phải mưu đồ đen tối của kẻ xấu.

Thực tiễn cho thấy, giá trị đáng ghi nhận của xã hội dân sự là những phát kiến, kiến nghị, đề xuất có cơ sở lý luận và thực tiễn, phù hợp với quan điểm, đường lối của đảng cầm quyền. C. Mác cho rằng: Chủ quyền của nhân dân phải trở thành vấn đề trung tâm trong một xã hội dân sự đích thực, làm cơ sở cho một chế độ dân chủ và một nhà nước dân chủ chân chính. Đây là tư tưởng cách mạng sâu sắc, có tính định hướng cho việc nhìn nhận, đánh giá và xác định tính đúng đắn của một tổ chức được coi là xã hội dân sự đích thực hay giả danh để chống phá chính quyền nhân dân.

Tại Đông Âu, Liên Xô, Bắc Phi, Trung Đông…đã từng diễn ra các trường hợp, một tổ chức xã hội dân sự bằng các chiêu trò dân túy và sự hà hơi, tiếp sức từ bên ngoài đã cổ súy và thực hiện “cách mạng nhung”, “cách mạng màu”.

Ở Việt Nam, quyền con người, quyền công dân là thành quả cách mạng được thể chế hóa và phát huy trên thực tế. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là sự kế thừa, phát triển những giá trị quyền con người, quyền công dân của nhân loại trong thời đại mới. Trong các bản Hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) đều thể hiện rõ sự tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; là chế độ dân chủ, do nhân dân làm chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sự xuất hiện một số tổ chức tự xưng “độc lập”, “dân chủ”, “nhân quyền”, như: Hội phụ nữ nhân quyền, Hội tù nhân lương tâm, Văn đoàn độc lập, Hội nhà báo độc lập, Hội anh em dân chủ…cũng như việc thành lập không chính danh, không thực hiện theo quy định pháp luật, cái gọi là “Công đoàn độc lập Việt Nam” là những tổ chức bất hợp pháp. Thực chất, đó là cái cớ mà các thế lực thù địch, các đối tượng chống đối như Lynn Huỳnh muốn lập ra nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chính vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần hết sức cảnh giác, nhận diện chính xác bộ mặt thật của chúng và kiên quyết đấu tranh làm thất bại những chiêu trò lợi dụng xã hội dân sự để chống phá cách mạng Việt Nam./.

Nhân văn Việt

 Đất nước ta đang trong dịp kỷ niệm 48 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975/30-4-2023). Gần đến dịp kỷ niệm, thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị, những kẻ suy thoái tư tưởng chính trị đã tung ra những thông tin sai trái, luận điệu xuyên tạc phủ nhận giá trị, bản chất của Chiến thắng 30-4-1975 trong lịch sử dân tộc Việt Nam.



Họ cho rằng, ngày 30-4-1975 là “ngày kết thúc của một cuộc nội chiến tương tàn”, “ngày ghi dấu ấn trong lịch sử khi dân tộc Việt Nam chia làm hai nửa “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc”... Vậy sự thật, bản chất của Chiến thắng 30-4-1975 là như thế nào?

Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước không phải là nội chiến

Đầu tiên cần khẳng định ngày 30-4-1975 là ngày vui thống nhất, ngày vui giải phóng của cả dân tộc Việt Nam! 

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, theo nội dung Hiệp định Geneva được ký kết năm 1954, vĩ tuyến 17 được coi là ranh giới tạm thời chia đôi đất nước ta. Ranh giới ấy lẽ ra đã được xóa bỏ, hai miền Nam-Bắc ruột thịt có thể đã được thống nhất chỉ sau hai năm bằng một cuộc Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu (Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva ghi rõ, cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956). Nhưng chính âm mưu của đế quốc Mỹ muốn thế chân thực dân Pháp ở miền Nam đã phá hỏng cơ hội thống nhất hai miền Việt Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm-tay sai của đế quốc Mỹ biết không thể có cơ hội chiến thắng một cách đàng hoàng, hợp pháp qua cuộc Tổng tuyển cử trên cả nước trước Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất được lòng dân. Nên, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã phớt lờ Tổng tuyển cử, giành quyền thống trị miền Nam bằng vũ lực, súng đạn, máy chém, sát hại dã man hàng vạn đồng bào, đảng viên Đảng Cộng sản và những người bị nghi ngờ ủng hộ Đảng Cộng sản, tạo ra những cuộc bắt bớ, giết hại tín đồ Phật giáo, gây mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo. Với việc dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ đã thi hành ở Việt Nam chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Khi nhận thấy Ngô Đình Diệm không còn phù hợp với chính sách của mình, Mỹ lập tức dàn xếp một cuộc đảo chính, tiêu diệt cả hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, dựng lên tại miền Nam Việt Nam một chính thể khác phục vụ trung thành hơn cho lợi ích của Mỹ tại Việt Nam.

Như thế cần khẳng định rằng, chính quyền Việt Nam cộng hòa hoàn toàn là tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ của Mỹ là biến Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, cùng với quân Mỹ, quân đội ngụy quyền Sài Gòn đã thực hiện nhiều chiến dịch thảm sát đồng bào miền Nam. Kể cả khi Mỹ đưa quân trực tiếp tham chiến, hay sau khi quân Mỹ phải rút phần lớn lực lượng khỏi miền Nam Việt Nam theo Hiệp định Paris vào năm 1973 thì bản chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn không thay đổi. Tại Việt Nam từ năm 1954 đến 1975, thực chất chỉ có một nhà nước chính danh của dân tộc Việt Nam tồn tại, đó là Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được khai sinh ngày 2-9-1945 từ sau cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố với toàn thể thế giới. Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu nên sau cuộc Tổng tuyển cử vào ngày 6-1-1946 (một số tỉnh tại miền Nam bầu vào ngày 23-12-1945 do không nhận được lệnh hoãn). Còn chính quyền Việt Nam cộng hòa tại miền Nam do Mỹ dựng lên, không do nhân dân Việt Nam bầu nên, chà đạp lên quyền lợi của dân tộc Việt Nam, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam. Vì thế, đây không phải là một chính quyền hợp pháp, hợp đạo lý, hợp lòng dân. Thực tế là trong suốt thời gian chính quyền tay sai của Mỹ tồn tại thì nhân dân miền Nam luôn đứng dậy để đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền phi nghĩa này. Để phủ nhận chính quyền tay sai của Mỹ, để lật đổ nó, quân dân miền Nam đã lập ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để lãnh đạo nhân dân toàn miền.

Đến năm 1973, sau khi thua trên chiến trường, chịu sức ép của dư luận trong nước và quốc tế bởi đang thực hiện một cuộc chiến tranh phi nghĩa, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris, rút quân khỏi nước ta. Nhưng Mỹ vẫn để lại một đội ngũ cố vấn hùng hậu, vẫn viện trợ quân sự để tiếp tục biến chính quyền Sài Gòn thành con rối trong tay Mỹ.

Như thế, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không phải là một cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc của Việt Nam như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Mà đây là cuộc kháng chiến của toàn thể dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam trước sự xâm lược của đế quốc Mỹ và đánh đổ bè lũ tay sai của Mỹ, kết thúc thắng lợi bằng Chiến thắng 30-4-1975. 

Bên nào thắng cuộc?

Như vậy, bên nào đã thắng cuộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? Dĩ nhiên, đó là dân tộc Việt Nam đã thắng trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, nhân dân Việt Nam đã thắng trong thực hiện khát vọng thống nhất đất nước, giành độc lập, hòa bình cho Tổ quốc. Để giành được thắng lợi vĩ đại đó, cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu anh dũng, bền bỉ trong suốt 30 năm.

Những ý nghĩ cho rằng, Việt Nam "có thể thực hiện thống nhất đất nước bằng giải pháp hòa bình" là hết sức thiển cận, hồ đồ, thiếu hiểu biết về thực tế lịch sử. Đảng ta, Nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo kế nhiệm đã nhất quán, thể hiện từ rất sớm mong muốn giành độc lập, thống nhất nước nhà bằng biện pháp hòa bình, đã nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp ngoại giao, tránh chiến tranh. Thế nhưng đáp lại thiện ý đó, thực dân Pháp, sau đó là đế quốc Mỹ và tay sai luôn khước từ, tìm cách phá hoại, vì muốn thống trị nước ta bằng sức mạnh quân sự, đã chà đạp lên mong ước hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam.

Trong hai năm 1945-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có 8 bức thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Nội dung của các bức thư, bức điện này thể hiện rõ mong muốn được độc lập, hòa bình của Việt Nam và thiện chí của Việt Nam muốn được “hợp tác đầy đủ” với Mỹ vì hòa bình, tiến bộ và phát triển. Nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng!

Hội nghị Fontainebleau diễn ra suốt hơn hai tháng (từ ngày 6-7 đến 10-9-1946). Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam còn sang Pháp trước đó hàng tháng trời để tìm mọi cơ hội đàm phán với Chính phủ Pháp, thuyết phục chính giới Pháp nhằm giành độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam bằng hòa bình. Nhưng mọi nỗ lực và thiện chí của Chính phủ Việt Nam, của phái đoàn Việt Nam đều bị xem nhẹ vì nước Pháp vẫn mang tư tưởng thực dân, vẫn muốn chiếm đoạt nước ta. Giải pháp tổ chức một cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu ở Nam Bộ để thống nhất Việt Nam đã bị phía Pháp phớt lờ. 

Trong Hiệp định Paris năm 1973 có điều khoản về bầu cử, hiệp thương để thống nhất Việt Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ-ngụy lại tiếp tục trắng trợn phá hoại hiệp định, xua quân nống lấn ra vùng tự do, đàn áp nhân dân ta chỉ hai giờ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực. 

Có thể thấy, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, muốn giành độc lập, thống nhất đất nước bằng biện pháp hòa bình, tránh đổ máu, muốn tổ chức hiệp thương, Tổng tuyển cử để bầu ra chính phủ thống nhất hai miền, nhưng chính đế quốc Mỹ và tay sai đã hai lần phá hoại hiệp thương, Tổng tuyển cử, phá hoại cả hai hiệp định hòa bình là Hiệp định Geneva và Hiệp định Paris. Do đó, hòa bình, độc lập, thống nhất, hạnh phúc như ngày hôm nay là thành quả vĩ đại của cả dân tộc ta. Bất cứ ai xúc phạm thành quả ấy, muốn chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc đều là những kẻ thiếu tử tế, mất nhân cách.  

Hòa hợp dân tộc không phải là trộn lẫn, đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa

Hiện nay, thực hiện chủ trương lớn hết sức đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, đồng bào Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài ra sức đoàn kết, đóng góp để xây dựng đất nước. Nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài cả về vật chất, trí tuệ, công sức đều hết sức quý giá, luôn được trân trọng. Trong số những người Việt Nam ở nước ngoài, đại bộ phận đều hướng về quê hương với tình yêu và sự nhiệt thành muốn đóng góp cho quê hương. Ngay cả những lãnh đạo của chính quyền Việt Nam cộng hòa năm xưa như ông Nguyễn Cao Kỳ cũng đã nhận ra sai lầm, thể hiện tấm lòng hướng về quê cha đất tổ, muốn đóng góp công sức để xây dựng đất nước Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, đoàn kết của người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, đất nước Việt Nam đã có những thành tựu đột phá về phát triển trong thời kỳ đổi mới, kinh tế đất nước, đời sống của nhân dân và vị thế quốc gia ngày càng đi lên.

Thế nhưng cũng có một bộ phận thiểu số, hầu hết đều là những người đã từng làm tay sai cho đế quốc Mỹ, thì chỉ luôn tìm cách hòng phá hoại đất nước Việt Nam. Họ coi ngày 30-4 là ngày “quốc hận”, là ngày giỗ của một chính thể phi pháp, phi nghĩa. Họ luôn đưa ra điều kiện hết sức phi lý là để “hòa hợp dân tộc” thì phải bỏ việc kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975.

Những người ấy đã nhầm! Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam luôn có khát vọng thống nhất, hòa hợp, đã chiến đấu kiên cường vì khát vọng ấy. Và thực tế, đất nước Việt Nam đã thống nhất, hòa hợp dân tộc từ ngay sau Chiến thắng 30-4-1975, Nam-Bắc một nhà ra sức xây dựng đất nước. Đối với những người Việt Nam ở nước ngoài, Tổ quốc luôn mở rộng vòng tay yêu thương, luôn coi họ là một phần ruột thịt của Tổ quốc.    

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” là bài học quý báu được đúc rút từ lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm căn dặn mỗi người chúng ta. Hòa hợp dân tộc luôn là điều mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nỗ lực thực hiện. Thế nhưng, hòa hợp dân tộc dứt khoát không phải là sự chối bỏ lịch sử! Hòa hợp dân tộc không phải là sự đổi trắng thay đen, không phải là sự trộn lẫn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, dứt khoát không phải là sự đánh đồng giữa những người có công với những kẻ có tội với dân tộc Việt Nam! "Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy" lại là đạo lý của người Việt Nam. Vì thế những ai thực sự thành tâm hối cải, muốn quay về thì Tổ quốc Việt Nam, nhân dân Việt Nam luôn dành cho họ cơ hội. Còn những kẻ luôn rắp tâm phá hoại đất nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nếu không sớm tỉnh ngộ “quay đầu là bờ” thì nhân dân Việt Nam cũng khó dung tha. 

Dịp kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975, chúng ta lại càng thấm thía hơn ý nghĩa của việc dạy và học lịch sử đối với người Việt Nam. Đối với các quốc gia trên thế giới, việc giáo dục lịch sử luôn là yêu cầu bắt buộc đối với mọi công dân. Đối với một quốc gia, dân tộc có một quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước nhiều khúc quanh co, phức tạp như dân tộc Việt Nam thì dạy và học lịch sử có ý nghĩa sống còn, sinh tồn của dân tộc. Bởi vì những người Việt Nam thế hệ sau phải hiểu rõ, hiểu sâu về lịch sử dân tộc, hiểu về cha ông mình, hiểu về mảnh đất nơi mình sinh ra, từ đó sẽ hiểu về chính bản thân mình, rút ra cho mình những bài học quý báu. Hiểu về lịch sử, nắm vững kiến thức lịch sử là một yếu tố đánh giá nhân cách, đạo đức và trí tuệ của một con người Việt Nam. Có hiểu về lịch sử, mới hiểu về hiện tại và hình dung ra con đường đúng đắn tới tương lai; có trân trọng, biết ơn cha ông mới trân quý, nâng niu những gì mình đang có, để nỗ lực đóng góp công sức không chỉ cho thế hệ hiện tại mà cho các thế hệ tương lai trên đất nước Việt Nam./.

Nguồn: Quan họ áo xanh

 

Mới đây, trên trang mạng xã hội, Nguyễn Thông lại giật tít: Thành ngữ ‘Đế quốc sài lang’. Trong bài viết, y cho rằng: dưới sự lãnh đạo của Đảng đã “kéo cả dân tộc vào cuộc sống trì trệ, lạc hậu, đói nghèo”. Đây là một luận điệu hết sức phản động, cho thấy dã tâm quyết chống phá Đảng, Nhà nước ta, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Nguyễn Thông. Song, luận điệu phản động của y bị lịch sử và thực tiễn sống động ở Việt Nam hiện nay bác bỏ, bởi lẽ:

Thứ nhất, việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân Việt Nam, phù hợp với quy luật của lịch sử.

Suốt thời gian dài bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc xâm lược, nhân dân ta đã thấy rõ bản chất áp bức, bóc lột, bất công, tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Nhiều lực lượng trong xã hội đã đứng lên làm cách mạng nhưng đều bị thất bại; chỉ đến khi Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đến được với chủ nghĩa Mác – Lênin, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam mới chấm dứt sự bế tắc về đường lối cách mạng. Theo đó, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Từ đây, cách mạng Việt Nam được đặt trong quỹ đạo cách mạng vô sản; là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Do đó, đối với cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất yếu khách quan, là khát vọng của nhân dân ta, là mục tiêu xuyên suốt đường lối lãnh đạo cách mạng của Đảng; nhờ đó toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã lập nên bao kỳ tích, giành quyền độc lập cho dân tộc, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Tiếp đến là một Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu đánh dấu mộc kết thúc thắng lợi cuộc Kháng chiến trường kỳ 9 năm chống lại đội quân viễn chinh của đế quốc Pháp với sự hỗ trợ của đế quốc Mỹ. Và, sau đó là thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ thống nhất non sông, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo tiền đề quan trọng để nước ta đổi mới và phát triển toàn diện trên tất các lĩnh vực, đảm bảo thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thứ hai, thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước là minh chứng sinh động về tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đang xây dựng.

Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, sau hơn 35 năm đổi mới, đến nay Việt Nam đã trở thành quốc gia đang phát triển, có thu nhập trung bình, quy mô nền kinh tế ước đạt trên 400 tỷ đô la đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN, nằm trong số 40 quốc gia có quy mô GDP lớn nhất thế giới. Đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người đạt 4.110 đô la (năm 2022). Đặc biệt, năm 2022, nền kinh tế Việt Nam đã có sự phục hồi mạnh mẽ với tăng trưởng GDP khoảng 8, 02%, trong khi kinh tế thế giới bị giảm sâu do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 và tình trạng bất định toàn cầu gia tăng liên quan đến xung đột giữa Nga và Ukraine. Tình hình chính trị và xã hội ổn định, quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Việt Nam tuyên bố hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói, về đích trước 10 năm. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 2,75% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều). Việt Nam thuộc Nhóm Phát triển con người cao từ năm 2019.  Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN, sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN…. Những thành tựu mà Việt Nam đạt được đã chứng minh rằng: phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Đây chính là tiền đề quan trọng, tạo ra tiềm lực, sức mạnh, niềm tin vào vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. 

Vì vậy, luận điệu của Nguyễn Thông đã thể hiện rõ bộ mặt của kẻ phản động, chống phá cách mạng nước ta. Do đó, mọi người cần nâng cao cảnh giác và đấu tranh bác bỏ. Đồng thời, chúng ta luôn vững tin vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta sẽ ngày càng đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa, đưa Việt Nam vững bước trên con đường trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI./.

Nhân văn Việt

 

Bên trên là biệt thự Pháp cổ tại 49 Trần Hưng Đạo - 46 Hàng Bài đang trong quá trình trùng tu. Hình ảnh được các trang mạng đưa lên và phần đông cư dân mạng chỉ trích kịch liệt vì máu sơn có phần quá rực rỡ, không cổ kính rêu phong và chi phí 14 tỷ là quá cao.

Trường hợp này làm mình nhớ lại cách đây đúng một năm, khi hình ảnh Nhà thờ lớn Hà Nội đang trong quá trình trùng tu ở giai đoạn thử nghiệm sơn và chống thấm, được đăng lên các trang mạng và cũng bị chửi với các lý do như mất đi vẻ cổ kính, màu sơn xấu… Luồng dư luận lên án mạnh mẽ đến mức phụ trách Nhà thờ Lớn là Chính xứ Nguyễn Văn Thắng phải lên tiếng rằng công trình chưa hoàn tất, còn nhiều giai đoạn, chưa vẽ giả cổ, chưa nghiệm thu nên mọi đánh giá là chưa chính xác và khách quan. Rồi sau đó, khi quá trình trùng tu kết thúc thì cư dân mạng lại há hốc mồm khen đẹp đẽ.

Tương tự, biệt thự Pháp cổ tại 49 Trần Hưng Đạo - 46 Hàng Bài chưa hoàn tất mà đang ở trong quá trình quét thử sơn, thử nghiệm màu sắc để tìm ra màu sơn gốc nhằm đảm bảo tính chính xác tuyệt đối so với lúc mới xây dựng. Các chuyên gia Pháp, đứng đầu là ông Emmanuel Cerise cũng khá ngạc nhiên khi phần đông dư luận Việt Nam lại chỉ quan tâm đến màu sơn mà không quan tâm đến chất lượng công trình, vật liệt gốc, giá trị lịch sử… Trong khi những chi tiết như màu sơn lại chưa được hoàn tất. Vậy nên, đánh giá rồi chê bai chỉ qua một vài bức ảnh liệu có đúng không?

Thời buổi hiện nay, ai cũng có thể chỉnh sửa ảnh, thêm filter, hiệu ứng này kia quá dễ dàng. Mỗi một chiếc điện thoại, máy tính cũng có thể hiển thị màu sắc khác nhau. Và chỉ khác góc chụp hay ánh sáng thôi là đã cho ra màu sắc khác nhau rồi. Có dám chắc rằng những bức ảnh chụp phản ánh chính xác hoàn toàn công trình hay không? Rồi vội vã chê bai? Chẳng lẽ đội ngũ chuyên gia Pháp không bằng mấy dân cư mạng Việt Nam?

Về số tiền 14 tỷ, nhìn thì nhiều thật đấy. Nhưng các bạn đừng quên rằng chúng ta phải thuê đội ngũ chuyên gia Pháp làm việc chứ không phải các thợ hồ Việt Nam. Các bạn định trả lương cho mỗi chuyên gia Pháp bao nhiêu tiền? 10 triệu/1 tháng hay 30 triệu/1 tháng? Muốn thuê chuyên gia nước ngoài thì phải trả mức lương mà họ thực nhận ở nước của họ và thậm chí là hơn thì mới thu hút họ về việc cho chúng ta được. Chứ trả lương theo kiểu Việt Nam thì có ma mới làm. Ghi chú thêm rằng, mức thu nhập trung bình của người Pháp là 1,1 tỷ đồng/1 năm, còn riêng với giới chuyên gia thì mức lương phải hơn thế nữa.

Hồi năm 2021, rộ lên vấn đề lương của chuyên gia Nhật ở dự án Metro Bến Thành - Suối Tiên lên tới 500 triệu/1 tháng liệu có quá cao? Cao so với chúng ta nhưng so với thu nhập của họ ở Nhật Bản thì quá là bình thường.

Ngoài ra, việc trùng tu công trình đảm bảo tính nguyên vẹn như gốc dựa vào các tài liệu lưu giữ lại từ năm 1915. Tức là các vật liệu như sơn, gạch, gỗ ốp… đều phải mang từ Pháp về, chịu chi phí trong quá trình vận chuyển, độ hao hụt và rủi ro. Nhìn con số 14 tỷ thì lớn, nhưng đừng quên rằng việc trùng tu tốn hơn cả tiền xây mới. Một số ví dụ chi nhiều để trùng tu như chùa Giác Viễn tốn 51 tỷ, Huế từng chi 26 tỷ đồng trùng tu cho 4 mái đình. Nhà thờ Đức Bà tốn 140 tỷ, Khám lớn Cần Thơ tốn 28 tỷ đồng hay như một mái đình nhỏ Đông Hải - Hà Tĩnh đã tốn 6 tỷ đồng. Dĩ nhiên, quy mô và đặc thù của mỗi di tích là khác nhau, nhưng có điểm chung là đều rất tốn kém hơn xây mới hoàn toàn rất nhiều.

Trên không gian mạng thường rất dễ để chê một thứ gì đó. Dĩ nhiên, việc khen chê là bình thường và đáng hoan nghênh nếu như dựa trên sự đánh giá khách quan, tìm hiểu rõ ràng và hiểu biết cặn kẽ. Nhưng thường thì phần đông dân cư mạng lại không như vậy.

Người ta thường kết luận một thứ gì đó quá vội vã, đánh giá khen - chê một cách rất nhanh chóng, thậm chí thấy người ta chê thì mình cũng chê theo chứ chẳng hề có chính kiến và không mang tính xây dựng.

Nấp sau màn hình, mỗi người đều có thể trở thành chuyên gia?

Nguồn: Fb Tifosi

 

Vài năm trước, giới chống cộng cờ vàng có thể kỳ vọng rằng mỗi lần một quan chức Mỹ sang thăm Việt Nam, chính phủ Việt Nam sẽ cho một đồng bọn đang ngồi tù của họ ra nước ngoài tị nạn. Tuy nhiên, kỳ vọng đó rõ ràng không phù hợp với tình hình hiện nay. Ngay trước chuyến thăm Việt Nam hôm 14/04 của ngoại trưởng Mỹ ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken, Nguyễn Lân Thắng đã lĩnh án 6 năm tù giam và 2 năm quản chế với cáo buộc tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam. Diễn biến này dường như nhắc lại một tiền lệ cách đây 3 năm, khi Phạm Đoan Trang (từng được đồng bọn tự hào khoe là “tài sản của nước Mỹ”) bị bắt tháng 10/2020, đúng vào ngày cuối cùng của cuộc Đối thoại về nhân quyền giữa Việt Nam và Mỹ.

Vậy giới cờ vàng có thể trông cậy gì vào chuyến thăm của Blinken không?  BBC tiếng Việt đã gửi câu hỏi này đến Phil Robertson, Phó Giám đốc khu vực châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch), kẻ luôn dành “ác cảm”, hằn học khi đánh giá về Việt Nam. Câu trả lời tất nhiên dễ đoán: Không. Phản ứng của chính quyền Biden trước những lời kêu gọi can thiệp vào chuyện nhân quyền ở Việt Nam vẫn tương tự hồi hai năm trước, khi phó tổng thống Mỹ Kamala Harris từ chối gặp các gương mặt cờ vàng cả trước lẫn trong chuyến thăm Hà Nội.

Tuy nhiên, câu trả lời của Phil Robertson cho biết nhiều thông tin thú vị hơn thế. Trong cuộc phỏng vấn, ông ta đã cố giải thích lý do khiến chính quyền Mỹ thờ ơ với chuyện nhân quyền ở Việt Nam. Và cách giải thích của Robertson đã vô tình chỉ ra sự lố bịch trong những luận điệu tuyên truyền mà nhiều hội nhóm cờ vàng đang sử dụng.

Cụ thể, trong khi giới chống cộng coi Mỹ như một viên sen đầm quốc tế uy nghiêm đáng sợ, thì Robertson nói rõ rằng Mỹ đang bị Việt Nam coi thường:

“Việc kết án nhà hoạt động Nguyễn Lân Thắng vào đêm trước chuyến thăm của Blinken cho thấy sự coi thường của Hà Nội đối với những quan ngại mà Hoa Kỳ đã nêu về nhân quyền ở Việt Nam.

Nó cũng cho thấy rằng chính phủ và Đảng Cộng sản Việt Nam tin rằng về cơ bản họ có thể chẳng cần đếm xỉa gì đến Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trong những vấn đề như thế này, mà chẳng bị làm sao cả.”

Vấn đề, theo Robertson, là Mỹ cũng không chủ động trong chuyện nhân quyền ở Việt Nam mấy. Nói cách khác, các chiến dịch “quốc tế vận” mà giới chống cộng tung ra một cách ồn ào mấy năm gần đây đều không có tác dụng gì cả, và tiền bạc đổ vào chúng cũng như là đổ xuống cống mà thôi:

“Cho đến nay, giống như phần còn lại của chính quyền Biden, ngoại trưởng Blinken ít có phát ngôn nào và về cơ bản không có hành động gì về nhân quyền ở Việt Nam.

Rõ ràng là Bộ Ngoại giao Mỹ không mấy nỗ lực trong vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.”

“Vấn đề thực sự là chính sách của Hoa Kỳ đang bước vào một giai đoạn gần như Chiến tranh Lạnh mới với Trung Quốc, và do đó, các tính toán chính trị thực dụng nhằm ve vãn Việt Nam có nghĩa là chính quyền Hoa Kỳ chỉ đang nói suông về nhân quyền.”

Đọc những nhận xét của Phil Robertson, ta thấy rõ sự lố bịch của các hội nhóm cờ vàng mỗi lần họ tự hào vì được chụp ảnh chung hay ăn cơm chung với một vài quan chức, dân biểu Mỹ. Nhưng không dừng ở đó, câu chuyện có lẽ cần được nhìn sâu hơn.

Ta nên nghĩ thế nào về chiến lược xuyên suốt của giới chống cộng mấy năm gần đây – theo đó họ lan tỏa não trạng Chiến Tranh Lạnh, và đòi chính phủ Việt Nam xích lại gần Mỹ trong cuộc xung đột giữa các cường quốc trên toàn cầu? Chẳng phải mỗi lần quan hệ Việt-Mỹ tốt lên, số gương mặt cờ vàng bị bắt lại tăng với tốc độ chóng mặt? Thế thì chẳng phải giới chống cộng đang nằm ngửa nhổ ngược, đổ hết tiền của vào một cuộc vận động khiến họ bị bắt dễ dàng hơn?

Trong lúc họ thờ Mỹ như cha, coi việc giúp Mỹ là giúp cái tử thi của Việt Nam Cộng hòa, thì người Mỹ có coi họ hơn một thằng mõ làng hay một con tốt thí?

Quan trọng nhất, trong chuỗi sự kiện này, cái “trật tự Mỹ” mà giới chống cộng muốn áp lên cả thế giới có đồng nghĩa với luật chơi nhân quyền không? Hay từ đây, ta thấy rõ nó chỉ đồng nghĩa với những bài toán lợi ích tủn mủn?

Dù giới chống cộng có thể đặt ra những câu hỏi này, dường như họ khó có thể thoát ra khỏi số phận đã định. Họ sống trên đất Mỹ, và sống bằng tiền tài trợ của Mỹ, tức là quá lệ thuộc vào Mỹ để có thể thận trọng đứng tách riêng. Dù họ tuyên bố mình đấu tranh cho độc lập tự do, bản thân họ không hề có độc lập tự do. Đây là lối mòn khó tránh của những kẻ không làm ra thứ gì hữu ích cho xã hội, mà chỉ biết vụ lợi bằng cách kích động các cuộc xung đột. Mà ác độc thay, họ lại nhằm vào quê hương và đồng tộc của họ./.

Yến Thanh - Nguồn: Hương Sen Việt

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.