Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp lâu dài, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Quá trình tiến hành, việc tiếp thu, chọn lọc tinh hoa thế giới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo là cần thiết. Song, những biểu hiện “sùng ngoại” dẫn đến phủ nhận, chệch hướng trong giáo dục ở Việt Nam hiện nay là rất nguy hại, cần phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ.



Ảnh minh họa: Internet

“Sùng ngoại” trong giáo dục tuy chưa phải là hiện tượng phổ biến, nhưng đã xuất hiện từ lâu và được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Điển hình nhất là sự tôn sùng, đánh giá thái quá cách thức, phương pháp, sản phẩm, giá trị giáo dục của nước ngoài; hạ thấp, coi thường nền giáo dục, sản phẩm giáo dục trong nước. Theo đó, một số người theo quan điểm này luôn ra sức quảng bá, tô vẽ, khuếch trương nền giáo dục nước ngoài, coi đó là thượng đẳng, là lý tưởng, con đường duy nhất để thế hệ trẻ Việt Nam có điều kiện làm “rạng rỡ tương lai, mở mang tiền đồ”. Nguy hiểm hơn, họ đòi loại bỏ các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi chương trình đào tạo; rằng: người dạy, người học phải được tự do về tư tưởng, không bị chi phối hoặc phụ thuộc vào bất cứ hệ tư tưởng nào. Thậm chí, lợi dụng một số hiện tượng tiêu cực, yếu kém trong giáo dục, đào tạo, không ít kẻ đã xuyên tạc, thổi phồng quá mức,... làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào nền giáo dục nước nhà cũng như niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.

“Sùng ngoại” trong giáo dục nếu không được ngăn chặn, nó sẽ như những “virus độc hại” lây lan, tác động to lớn đến con người và xã hội, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường. Trong đó có tác động làm sói mòn bản sắc văn hóa dân tộc, thay đổi những giá trị đạo đức cốt lõi bằng chủ nghĩa thực dụng, đề cao cá nhân, lối sống hưởng thụ, tôn thờ vật chất,… ảnh hưởng xấu đến đạo đức, lối sống, nhất là của giới trẻ. Sâu xa hơn, “sùng ngoại”, lai căng trong giáo dục sẽ làm thay đổi nhận thức, tư duy, khiến thế hệ trẻ mơ hồ về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Giáo dục phải mang tính giai cấp

Theo quan điểm của Đảng, “Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng”1. Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Như vậy, nền giáo dục Việt Nam phải phục vụ mục đích chính trị cao quý của Đảng: vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi sự cải cách, hội nhập đều phải hướng tới mục tiêu cốt lõi này. Vì thế, việc tôn sùng, hướng tới sao chép một cách cứng nhắc mô hình giáo dục của nước ngoài để thay thế cho nền giáo dục Việt Nam theo quan điểm “sùng ngoại” là hoàn toàn phản khoa học; bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong chương trình giáo dục không chỉ đơn thuần là sự đòi hỏi “cải cách”, mà thực chất đó là tư tưởng phản động, đi ngược lại với lợi ích của đất nước.

Thực tế không thể phủ nhận

Thực tiễn những năm qua cho thấy, cùng với những thành tựu to lớn đạt được, sự nghiệp giáo dục, đào tạo của nước ta cũng tồn tại không ít hạn chế, bất cập. Đó là điều bình thường, nhất là đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên, nếu luôn cho rằng, nền giáo dục Việt Nam là lạc hậu, thấp kém, cần phải thay thế bằng các mô hình giáo dục của nước này, nước kia để theo kịp thế giới là biểu hiện rõ nét của sự “sùng ngoại”; là sự nhìn nhận phiến diện, phủ nhận sạch trơn những thành tựu của giáo dục Việt Nam. Nhìn lại lịch sử, với chính sách “ngu dân” thâm độc mà thực dân Pháp áp dụng trong suốt thời gian đô hộ nước ta, cho đến năm 1945, khi đất nước giành được độc lập, có tới 95% dân số mù chữ. Từ nền tảng gần bằng không đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, đặc biệt là ngành giáo dục và toàn dân, giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần đặc biệt quan trọng để đất nước có được cơ đồ, vị thế, uy tín như ngày nay.

Với quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”, Việt Nam là nước có mức đầu tư cho giáo dục cao trên thế giới, có xu hướng tăng đều trong từng năm2. Đặc biệt, Việt Nam trở thành điểm sáng trong khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương về kết quả, thành tích các cuộc thi Olympic quốc tế dành cho học sinh. Năm 2022, 38 lượt học sinh dự thi Olympic quốc tế đều giành huy chương, đưa Việt Nam năm thứ 2 liên tiếp lọt vào nhóm 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có thành tích tốt nhất tại các kỳ thi này; trong đó, xếp thứ 4/104 quốc gia và vùng lãnh thổ tại Olympic Toán học quốc tế lần thứ 63 (IMO 2022). Sự kiện Việt Nam lần thứ 5 trúng cử thành viên Hội đồng Chấp hành Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) nhiệm kỳ 2021 - 2025 (tháng 11/2021) đã khẳng định vai trò, vị thế, uy tín và những đóng góp chủ động, tích cực, hiệu quả của nước ta đối với các chương trình, định hướng lớn của UNESCO trên các lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Những chuyển biến tích cực của giáo dục Việt Nam còn được thể hiện rõ nét thông qua đánh giá của các tổ chức quốc tế uy tín. Theo kết quả xếp hạng các quốc gia tốt nhất về giáo dục năm 2021 của USNEWS, Việt Nam xếp thứ 59, tăng 6 bậc so với năm 2020 (kết quả dựa trên khảo sát toàn cầu về ba thuộc tính cùng trọng số của mỗi quốc gia: có hệ thống giáo dục công phát triển tốt; mọi người có cân nhắc theo học đại học ở đó hay không; quốc gia đó cung cấp nền giáo dục chất lượng hàng đầu hay không). Hiện nay, Việt Nam có 07 cơ sở giáo dục vào nhóm 1.000 trường đại học có ảnh hưởng thế giới (theo bảng xếp hạng The Impact Rankings được Tạp chí Times Higher Education (THE) công bố vào tháng 4/2022). Những số liệu trên chưa thể hiện được toàn diện thành tựu trong giáo dục, cũng chưa đề cập đến những yếu tố chính trị, tinh thần mà giáo dục đem lại cho người dân, song đủ để khẳng định rằng, dù quá trình cải cách giáo dục còn có những hạn chế, bất cập, song những kết quả mà giáo dục Việt Nam đã đạt được là không hề thấp kém và không thể phủ nhận.

Giữ vững mục tiêu trong hội nhập, nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục

Hội nhập giáo dục là xu thế tất yếu khách quan và cũng là yêu cầu bắt buộc đối với giáo dục Việt Nam trong tiến trình phát triển đất nước. Việc tiếp thu, kế thừa thành tựu, kinh nghiệm của các nước trên thế giới là cách thức hiệu quả để “đi tắt, đón đầu” nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quá trình hội nhập về giáo dục của nước ta đã được tiến hành mạnh mẽ và đạt nhiều kết quả quan trọng3. Tuy nhiên, đây cũng là quá trình mà quan điểm “sùng ngoại” đã và đang tiếp tục len lỏi, tác động, tạo nguy cơ làm chệch hướng mục tiêu của nền giáo dục. Vì vậy, cần thực hiện nhất quán chủ trương: “Chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại”4. Quá trình kế thừa, tiếp thu phải chắt lọc những giá trị phù hợp, kiên quyết loại bỏ yếu tố “ngoại lai”, ảnh hưởng tiêu cực đến nền giáo dục; tăng cường hợp tác quốc tế phải bảo đảm phát triển bền vững, phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc lập, tự chủ và định huớng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng hợp tác đa phương phải gắn với tăng cường công tác quản lý nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân về giáo dục và đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài cho giáo dục, ưu tiên lĩnh vực đào tạo đại học, sau đại học và giáo dục nghề nghiệp; có cơ chế, chính sách thu hút và thẩm định chặt chẽ giáo viên, nhà khoa học người nước ngoài tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục đại học.

Cùng với đó, tập trung nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục Việt Nam. Đây là vấn đề cốt lõi để đẩy lùi quan điểm “sùng ngoại”, bài nội trong giáo dục. Trong đó, cần coi trọng cả ba mặt giáo dục: dạy làm người, dạy chữ, dạy nghề; đặc biệt chú ý giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, lịch sử, truyền thống văn hóa của dân tộc, của Đảng. Ngăn chặn kịp thời xu hướng mờ nhạt tư tưởng chính trị, xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động giáo dục, nhất là quan điểm “sùng ngoại”. Quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục nhân cách, làm cho thế hệ trẻ có đủ khả năng và bản lĩnh thích ứng với những biến đổi nhanh chóng của xã hội. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Tiếp tục xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, có chất lượng tốt.

Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra khó khăn nhất, âm thầm nhất và quyết liệt nhất là trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, trong đó giáo dục là một trận địa quan trọng. Cảnh giác, đấu tranh, loại bỏ quan điểm “sùng ngoại” trong giáo dục sẽ giữ vững định hướng, mục tiêu của giáo dục, trực tiếp góp phần xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.

Thượng tá, TS. VŨ THANH TÙNG, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng - Nguồn: Tạp chí QPTD
-------------------------------

1 - Khoản 1, Điều 3, Chương I, Luật Giáo dục năm 2019.

2 - Riêng giai đoạn 2011 - 2020, tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đạt trung bình khoảng 17% - 18%, có năm gần 19%. So với Mỹ (13%), Indonesia (17,5%), Singgapore (19,9%). Mức chi cho giáo dục của nước ta hằng năm tương đương 4,9% GDP, chỉ kém Malaysia 5%, cao hơn các nước khác trong khối ASEAN.

3 - Riêng giai đoạn 2016 - 2020, nước ta đã có hơn 70 thỏa thuận quốc tế và 23 điều ước quốc tế được ký kết, góp phần tạo hành lang pháp lý triển khai nhiều chương trình hợp tác, như: trao đổi học sinh, sinh viên, giáo viên, giảng viên; hợp tác giáo dục, nghiên cứu, đào tạo, trao đổi chuyên gia,v.v. Ngành giáo dục và các cơ sở đại học đã phê duyệt, ký kết trên 530 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, với khoảng 85.000 người đã theo học, trong đó hơn 45.000 người đã hoàn thành chương trình và được cấp bằng.

4 - Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

 

Vừa qua, phái đoàn Quốc hội châu Âu đã mở cuộc họp báo tại Hà Nội để nói lên “Sự quan ngại sâu sắc trước tình hình nhân quyền ngày càng tồi tệ” tại Việt Nam. Họ nêu ra và chỉ trích những vi phạm nhân quyền trên các lĩnh vực xã hội và chính trị, đặc biệt là “không gian tự do” của “xã hội dân sự” bị thu hẹp, các điều luật mơ hồ trong Bộ Luật Hình sự được sử dụng để dập tắt mọi tiếng nói bất đồng chính kiến, các nhà hoạt động dân sự bị sách nhiễu, tự do ngôn luận bị bóp nghẹt, quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng bị hạn chế. Thông tin trên được đăng tải trên trang facebook Đài Á Châu Tự Do (RFA), ngày 07/4. Đây vẫn là những thông tin phiến diện, không chính xác về tình hình nhân quyền tại Việt Nam, cần đấu tranh, bác bỏ. Bởi vì:

Những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn tích cực, chủ động tham gia ký kết, thực hiện đầy đủ các công ước quốc tế về nhân quyền; nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm các quyền của công dân. Do vậy, các quyền, lợi ích của công dân, như: quyền tự do, dân chủ, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng,… đều được quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật, như: Luật Cư trú, Luật Báo chí, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, v.v. Đồng thời, các quyền công dân đều được bảo vệ, thực thi nghiêm túc; nghiêm cấm các hành vi cản trở việc thực hiện các quyền của công dân.

Trên thực tế, Việt Nam đã bảo đảm thực thi tốt nhất các quyền của con người, quyền của công dân. Bằng chứng là: mọi công dân đều được tự do đi lại, tự do cư trú; tự do bày tỏ ý kiến nguyện vọng của mình; mọi ý kiến của người dân đều được lắng nghe, chuyển đến các cấp chính quyền để giải quyết, được phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Bên cạnh đó, với sự phát triển mạnh mẽ của hơn 800 cơ quan báo chí, truyền thông, các trang mạng xã hội,… là diễn đàn để mọi người dân được tự do thể hiện tiếng nói, quan điểm, nguyện vọng của mình trên cơ sở tuân thủ quy định của Hiến pháp, pháp luật. Điều này, đã tạo cơ sở, điều kiện để mọi người dân Việt Nam được phát triển toàn diện, cống hiến, tham gia xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Có một thực tế không thể phủ nhận đó là: đất nước Việt Nam chưa bao giờ có được cơ đồ, vị thế, uy tín như hiện nay và được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Với sự nỗ lực, cố gắng đó, Việt Nam đã hai lần trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc và đã có những đóng góp tích cực, thực chất, trách nhiệm, thúc đẩy các sáng kiến nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc.

Đáng tiếc rằng, phái đoàn Quốc hội châu Âu khi sang Việt Nam đã không tiếp xúc với các cơ quan chức năng của Nhà nước Việt Nam tìm hiểu để có thông tin chính thức, đầy đủ, nhìn nhận, đánh giá khách quan, chính xác tình hình nhân quyền Việt Nam. Đằng này, họ lại chỉ tiếp xúc, nghe ý kiến của một số phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, có tư tưởng tiêu cực, chống phá Đảng, Nhà nước. Vì thế, có thể khẳng định rằng những thông tin mà họ đưa ra là phiến diện, hoàn toàn không chính xác, gây ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu./.

Tre Việt

70 năm trước đây, từ ngày 13-4 đến 18-5-1953, lần đầu tiên bộ đội chủ lực Việt Nam đã phối hợp với các đơn vị Pathet mở chiến dịch Thượng Lào, giành thắng lợi to lớn; đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân viễn chinh Pháp, giải phóng và mở rộng căn cứ kháng chiến của Lào tại hai tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng (Thượng Lào), xây đắp nên biểu tượng cao đẹp về tình đoàn kết chiến đấu vĩ đại Việt Nam - Lào, “mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”. Đây là minh chứng sinh động để bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, đã xuyên tạc mối quan hệ thân thiết giữa hai Đảng, hai Nhà nước, hai quân đội Việt Nam - Lào.



Hoàng thân Xuvanuvông và Đại tướng Võ Nguyên Giáp bàn kế hoạch phối hợp mở chiến dịch Thượng Lào, năm 1953.

Sau chiến dịch Tây Bắc - Thu đông 1952, Tổng Quân ủy đã nhận định: “Thượng Lào có ý nghĩa lớn về chiến lược, vừa phù hợp với trình độ tác chiến của ta… vừa mở được căn cứ cho bạn đứng chân, tạo nên một thế trận mới liên minh chiến đấu giữa hai nước Lào - Việt”. Tổng Quân ủy đã đề nghị với Đảng, Bác Hồ cho phép Quân đội ta phối hợp với quân giải phóng Lào mở chiến dịch này. Trước đề nghị hợp lý, hợp tình của ta, Chính phủ kháng chiến và Mặt trận Lào Ítxala đã tán thành chủ trương và mong muốn sau chiến dịch, Sầm Nưa sẽ là thủ đô kháng chiến của Lào và Thượng Lào sẽ là căn cứ địa của kháng chiến của cách mạng Lào.

Thượng Lào là địa bàn rộng lớn, phần lớn là rừng núi hiểm trở, nhiều sông, suối, đèo cao, vực sâu chia cắt; dân cư thưa thớt, kinh tế kém phát triển... nên việc hành quân, bảo đảm vật chất hậu cần - kỹ thuật cho Chiến dịch gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, địch lại tổ chức đánh phá quyết liệt. 

Thực hiện chủ trương của Đảng, lời căn dặn của Bác Hồ và quyết tâm Chiến dịch, các cánh quân của ta đã tranh thủ thời gian, tổ chức các bộ phận gọn nhẹ, hành quân bí mật và nhanh chóng tiến vào bao vây, cô lập, tiêu diệt địch. Ngày 3-2-1953, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Kháng chiến Lào quyết định phối hợp mở Chiến dịch Thượng Lào. Đây là lần đầu tiên Liên quân cách mạng Lào - Việt Nam phối hợp với nhau tác chiến theo một kế hoạch, cùng chống kẻ thù chung là thực dân Pháp. Đây cũng là lần đầu tiên bộ đội chủ lực của ta tác chiến trên đất bạn.


Lễ kết nghĩa bộ đội Việt Nam và bộ đội Pa-thét Lào trong Chiến dịch Thượng Lào năm 1953.

Trước khi xuất quân, ngày 3-4-1953, Bác Hồ đã viết thư căn dặn các đơn vị bộ đội có nhiệm vụ chiến đấu ở Thượng Lào: “Lần này là lần đầu tiên các chú nhận một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình” và giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng Chiến dịch. Về phía bạn, Hoàng thân Xuphanuvông - Thủ tướng Chính phủ kháng chiến Lào và đồng chí Cayxỏn Phômvihản - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng tham gia chỉ đạo Chiến dịch.

Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định tiến công địch trên 3 hướng Sầm Nưa, Xiêng Khoảng và Nậm U; trong đó, hướng chủ yếu là Sầm Nưa. Trên các hướng đã định, ngày 8-4-1953, các đơn vị chủ lực Việt Nam tiến quân sang Lào; bắt đầu uy hiếp địch ở Luông Prabang, Xiêng Khoảng và Sầm Nưa.

Trước sự tiến quân mạnh mẽ của ta, quân Pháp ở Đông Dương nhận thấy không thể “lấy trứng chọi đá” nên vội rút quân khỏi Sầm Nưa, quân ta hạ quyết tâm “truy kích địch đến cùng” nhằm tiêu diệt sinh lực địch để đánh dấu cuộc tấn công đầu tiên của quân chủ lực Việt Nam sang Thượng Lào, không cho địch chạy thoát về Cánh đồng Chum.

10 giờ ngày 13-4-1953, các đơn vị đi đầu của ta đã nổ súng đánh chặn đường rút lui của địch. Quân ta kiên quyết đã bám đuổi, truy kích, tiêu diệt và bắt sống hàng trăm tên địch, buộc số còn lại phải rút chạy về Cánh đồng Chum cố thủ. Chỉ trong một thời gian ngắn, tỉnh Sầm Nưa và vùng lân cận được giải phóng. Sau hơn một tuần truy kích trên chặng đường dài 270 km từ Sầm Nưa về Cánh đồng Chum, các đơn vị chiến đấu của ta và bạn đã tiêu diệt, bắt và làm tan rã hơn 1.500 tên địch, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn, diệt và bức rút hàng loạt cứ điểm, tạo điều kiện cho phong trào kháng chiến Lào phát triển.

Phối hợp với quân ta, nhân dân các bộ tộc Lào đã huy động hàng nghìn dân công, hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm; làm công tác dẫn đường, giữ bí mật, tiếp tế và cùng bộ đội ta lùng bắt tàn binh địch. Đến ngày 18-5-1953, Bộ Chỉ huy quyết định kết thúc chiến dịch, phân tán một bộ phận lực lượng, kết hợp cùng với bộ đội Lào truy quét tàn binh, xây dựng cơ sở, còn đại bộ phận rút quân về nước.

Sau nhiều ngày truy kích liên tục, các đơn vị tham gia chiến dịch đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.800 tên, chiếm 1/5 tổng số lực lượng địch ở Lào, giải phóng trên 35.000 km2, gồm toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và Luông Prabang với 1/5 diện tích Bắc Lào và hơn 40.000 dân; trong đó có lưu vực sông Nậm U là vùng có tầm chiến lược quan trọng, vùng giàu có nhất ở Tây Bắc nước Lào.

Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào đã tạo nên cục diện mới cho cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Lào. Kể từ đây, cách mạng Lào có một căn cứ địa rộng lớn và sát liền với vùng giải phóng của Việt Nam. Quân đội giải phóng Lào có hậu phương lớn để đứng chân, xây dựng và phát triển lực lượng. Cách mạng Lào đã nối thông với cách mạng Việt Nam, tạo thế phối hợp chiến lược giữa Việt Nam - Lào ngày càng vững chắc.

Chiến thắng Thượng Lào là thắng lợi của tinh thần quốc tế vô sản cao cả, thắng lợi của sự phối hợp chiến đấu chặt chẽ, gắn bó keo sơn giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng Lào, giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Lào. Từ đây, sự phối hợp chiến đấu giữa quân đội hai nước đã phát triển lên tầm cao mới ngày càng chặt chẽ, hiệu quả và thắng lợi to lớn hơn, đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của hai nước vững bước tiến lên giành thắng lợi mới.

Trong cuộc mít tinh mừng chiến thắng, ngày 19-5-1953, Hoàng thân Xuphanuvông nhận định: “Sầm Nưa giải phóng là một thắng lợi lớn của cuộc kháng chiến Lào… là kết quả của tinh thần đoàn kết chiến đấu anh em giữa hai nước Việt - Lào, của sự giúp đỡ không điều kiện của nhân dân, quân đội Việt Nam tiêu diệt kẻ thù chung”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Chiến dịch Thượng Lào đã hoàn thành tất cả những mục tiêu đề ra lúc đầu. Mùa xuân năm 1953 mở ra triển vọng lớn cho hai dân tộc Việt - Lào trong chiến tranh, với thế phối hợp chiến lược mới giữa cách mạng hai nước. Đó là dấu son tươi thắm trong lịch sử đoàn kết chiến đấu Việt - Lào; đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật chiến dịch trên địa bàn rừng núi của quân dân hai nước.

Thắng lợi của Chiến dịch Thượng Lào năm 1953 tác động trực tiếp đến kết cục cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta; để lại nhiều bài học quý báu đối với thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hôm nay và mai sau. Trong đó, nổi bật là bài học về chuẩn bị và thực hành chiến dịch; đặc biệt là nghệ thuật truy kích địch và chỉ có giành thắng lợi mới bác bỏ được mọi quan điểm tuyên truyền sai trái của các thế lực thù địch. Đây là những kinh nghiệm quý báu vẫn nguyên giá trị, cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, thấu đáo; được chắt lọc; đưa vào giảng dạy và và vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay./.

DƯƠNG PHƯƠNG DUY - Nguồn: Fp Nhân Văn Hà Nội

 

Phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng đã và đang được các thế lực thù địch lựa chọn và xác định là mũi nhọn tấn công và có sức “công phá” mạnh nhất vào thành trì cách mạng Việt Nam. Cuộc tấn công này của chúng diễn ra trên nhiều lĩnh vực, với các phương tiện, thủ đoạn khác nhau, nhất là trên môi trường không gian mạng.

Môi trường không gian mạng với ưu thế tốc độ lan truyền thông tin nhanh, diện thông tin rộng trở thành nhu cầu thiết yếu trong đời sống của con người. Tuy nhiên, đây cũng là môi trường được các thế lực thù địch, phản động tận dụng tối đa để gia tăng các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin – Bộ phận cấu thành quan trọng nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực tiễn cho thấy, môi trường không gian mạng luôn mở, cho phép kết nối rộng rãi, thông tin đăng ký sử dụng không cần xác thực; Việt Nam cũng là một trong số các nước có số lượng lớn người dân tham gia môi trường không gian mạng. Theo thống kê đến tháng 02/2022, có 76,95 triệu người dùng mạng xã hội ở Việt Nam, số lượng người dùng mạng xã hội ở Việt Nam vào đầu năm 2022 tương đương 78,1% dân số, trong đó người dùng Facebook là 70,4 triệu người. Mặt khác, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội đã sớm xem internet, mạng xã hội là “mảnh đất màu mỡ” để sử dụng chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin, bộ phận quan trọng hợp thành nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Tận dụng những lợi thế về phạm vi, đối tượng sử dụng không gian mạng nên các thế lực thù địch, phản động, chống đối đã thường xuyên sử dụng môi trường này để liên kết, móc nối, phát triển lực lượng trong nước, đào tạo, huấn luyện, hình thành và công khai hóa hội, nhóm xã hội dân sự có hoạt động chống đối trên không gian mạng. Chúng thành lập các nhóm Facebook, Fanpage, Blog mang màu sắc chính trị, chống phá Đảng, Nhà nước dưới hình thức “công khai, kín và bí mật” có sự tham gia, liên kết giữa các đối tượng bất mãn, thành viên của các tổ chức phản động. Sử dụng mô hình hoạt động của nhóm Fanpage, Blog, Youtube, các đối tượng chống đối đăng tải, tán phát, bình luận nhiều thông tin, bài viết, hình ảnh có nội dung công kích, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, nhận biết để vạch trần thủ đoạn này của chúng trên không gian mạng là trực tiếp góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới hiện nay.

Trong khi đó vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thấy rõ sự chống phá của các thế lực thù địch; có biểu hiện thờ ơ, đứng ngoài cuộc; chưa thể hiện tinh thần trách nhiệm, chính kiến khi tham gia mạng xã hội; thiếu ý thức, hành động phản bác những luận điệu xuyên tạc, đi ngược đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản bác những thông tin gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Qua đó, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng nói chung, chủ nghĩa Mác – Lênin nói riêng, như nhận định được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin…”. Những hạn chế này đã, đang và sẽ tiếp tục bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bởi vậy, mỗi chúng ta cần nêu cao cảnh giác, không để các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá./.

Nhân văn Việt

Trước những ảnh hưởng và hệ lụy nghiêm trọng của tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình, cả hệ thống chính trị, các cơ quan, ban ngành tỉnh Tuyên Quang, nòng cốt là lực lượng Công an đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, từ kiên trì tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân không tin, không nghe theo tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình, đến nỗ lực ngăn chặn, đấu tránh tiến tới xóa bỏ tổ chức bất hợp pháp này.




Lực lương công an huyện Hàm Yên trò chuyện với các bạn trẻ người Mông tại thôn Cao Đường, xã Yên Thuận. Ảnh: TTXVN phát

Làm rõ bản chất sai trái

Đầu năm 2021, trên địa bàn xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, 9 tổ công tác đã được thành lập với thành phần là cán bộ xã, Công an xã, lực lượng an ninh phụ trách địa bàn, Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn. Nhiệm vụ chính của tổ công tác là đến từng hộ người Mông tuyên truyền, vận động, giúp bà con hiểu rõ âm mưu của thế lực thù địch, các luận điệu sai trái của tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình; đồng thời tuyên truyền, vận động chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương.

Ông Ma Văn Hùng, Bí thư Đảng ủy xã Hùng Lợi cho biết, địa bàn rộng, đa phần là đồi núi hiểm trở, đồng bào sống Mông chủ yếu quen nếp du canh du cư, rải rác trên các sườn núi vì vậy, việc tiếp cận gặp rất nhiều khó khăn. Cùng với đó, những hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình thường rất khó tiếp cận. Khi tổ công tác đến, các hộ đã tắt điện, đóng cửa hoặc tránh vào núi. Có những hộ mặc dù tổ công tác tiếp cận được nhưng không nghe, từ chối sự tuyên truyền. Kinh tế của bà con người Mông ở xã Hùng Lợi chủ yếu dựa vào nông, lâm nghiệp. Ban ngày, đồng bào thường lên nương, rẫy, muốn gặp để tuyên truyền, vận động, tổ công tác thường phải đến gặp bà con vào buổi tối, từ 18-21 giờ.

Cũng theo ông Ma Văn Hùng, chính quyền địa phương tích cực phối hợp với các già làng, trưởng bản, những người uy tín là người Mông tuyên truyền, vận động đồng bào không nghe theo kẻ xấu. Đặc biệt, trong quá trình vận động, tổ công tác kịp thời nắm bắt thông tin về các đối tượng cốt cán của tổ chức bất hợp pháp, tăng cường gần gũi, tuyên truyền, vận động. Khi các đối tượng này không còn tin theo tổ chức Dương Văn Mình, việc vận động các hộ dân khác sẽ thuận lợi hơn.

Vượt qua quãng đường gần 30 cây số đèo dốc, nguy hiểm, tổ công tác mới đến được hộ gia đình nhà bà Hoàng Thị De (thôn Khuổi Ma, xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn). Thiếu tá Tướng Văn Ba, Trưởng Công an xã Hùng Lợi chia sẻ, ngoài giữ vai trò là lực lượng nòng cốt, phối hợp với các tổ công tác của địa phương, lực lượng Công an xã, an ninh phụ trách địa bàn thường xuyên đến thăm hỏi, trò chuyện với các hộ gia đình như bà De, cùng lên nương, lên rẫy hỗ trợ, hướng dẫn các gia đình lao động, sản xuất, trồng ngô, trồng lúa, nuôi trâu, nuôi dê. Những hoạt động đó  góp phần tạo thêm lòng tin với đồng bào, tạo điều kiện thuận lợi vận động đồng bào từ bỏ tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình.


Công an huyện Lâm Bình thực hiện “4 cùng” với đồng bào Mông trên địa bàn. Ảnh: TTXVN phát

Nỗ lực đấu tranh, ngăn chặn

Theo Đại tá Hà Phúc Thịnh, Phó Giám đốc Công an tỉnh Tuyên Quang, tháng 3/2022, lực lượng chức năng tỉnh, trong đó nòng cốt là Công an đã tổ chức đợt đấu tranh cao điểm quyết liệt, mục tiêu xóa bỏ tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình trên địa bàn tỉnh. Theo đó, Công an tỉnh đã thành lập 17 tổ công tác đồng loạt xuống các địa bàn có ảnh hưởng của tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình. Các tổ công tác thực hiện “4 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng ngôn ngữ) với đồng bào và phối hợp với 24 tổ công tác của cấp ủy, chính quyền các địa phương tích cực tuyên truyền đấu tranh, xóa bỏ tổ chức bất hợp pháp.

Qua công tác trinh sát, bám nắm địa bàn, lực lượng Công an đã phát hiện, nắm rõ các đối tượng cốt cán trong tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình; thu thập tài liệu, nghiên cứu, xử lý trước pháp luật các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật theo quy định. Đồng thời, tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân; kiên quyết đấu tranh với các đối tượng có hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn.

Để đồng bào Mông thêm quyết tâm từ bỏ tổ chức bất hợp pháp, ông Đỗ Hữu Ngọc, Chủ tịch UBND xã Tân Thành, huyện Hàm Yên cho biết, chính quyền xã thường xuyên cử cán bộ xuống từng hộ thăm hỏi, động viên kịp thời nắm bắt tình hình cũng như tâm tư nguyện vọng của đồng bào, hướng dẫn bà con vay vốn để phát triển sản xuất. Bà con người Mông ở xã Tân Thành giờ đã hiểu rõ bản chất, 100% số hộ bị ảnh hưởng đã tự nguyện ký cam kết từ bỏ tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình.

Với quyết tâm cao, nỗ lực của cả hệ thống chính trị, nghiêm túc thực hiện các biện pháp, công tác đấu tranh, ngăn chặn tiến tới xóa bỏ tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình, tỉnh Tuyên Quang đã có được những kết quả nhất định. Từ năm 2007 đến hết năm 2021, chính quyền và lực lượng chức năng tỉnh Tuyên Quang tổ chức trên 80 lượt cưỡng chế, tháo dỡ nhà đòn, nhà nhỏ của tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình. Tính đến ngày 3/11/2022, 100% các hộ đồng bào Mông trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang bị ảnh hưởng bởi tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình đã tháo phông trắng (biểu tượng của tổ chức) ký cam kết từ bỏ tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình.

Vũ Quang - Thu Huyền, Nguồn: Tin tức TTXVN

Hơn 30 năm tồn tại, tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình đã gây ra nhiều ảnh hưởng nặng nề với đời sống người dân, làm phức tạp tình hình an ninh trật tự tại các địa phương bị ảnh hưởng.


Đội lốt tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng sự thiếu hiểu biết, nhẹ dạ cả tin của một bộ phận đồng bào Mông, tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình đã có nhiều hoạt động vi phạm pháp luật, dụ dỗ, lôi kéo hàng nghìn người Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc tham gia tổ chức. Nhiều bà con đồng bào Mông trở thành nạn nhân, thành con rối để tổ chức điều khiển, nhằm thực hiện âm mưu ly khai, tự trị, lập nhà nước riêng tách ra khỏi cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Việc ngăn chăn, đẩy lùi, xóa bỏ tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình được coi là nhiệm vụ quan trọng, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị để giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

TTXVN thực hiện chùm 3 bài viết phản ánh về sự ảnh hưởng của tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình với đồng bào dân tộc Mông tại một số địa phương vùng cao, vùng sâu, vùng xa của tỉnh Tuyên Quang và sự nỗ lực, quyết tâm của cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc ngăn chặn, đẩy lùi, xóa bỏ tổ chức này, đem lại cuộc sống bình yên, ổn định cho đồng bào.


Một góc làng quê xã Yên Lâm, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Ảnh: TTXVN phát

Bài 1: Nhận diện tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình

Lợi dụng sự thiếu hiểu biết của một bộ phận đồng bào Mông tại tỉnh Tuyên Quang, tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình đã tuyên truyền những luận điệu phi lý, sai trái gây phức tạp tình hình an ninh trật tự. Đời sống của bộ phận đồng bào bị ảnh hưởng bởi tổ chức bất hợp pháp cũng vì thế mà bị xáo trộn, điêu đứng và nghèo khó. Nhiều hoạt động của tổ chức bất hợp pháp đi trái với giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Mông và ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đội lốt hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo

Tỉnh Tuyên Quang từng là một trong số những địa phương có một bộ phận đồng bào Mông bị ảnh hưởng bởi tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình. Thượng tá, Trần Xuân Thụ, Trưởng Phòng An ninh Đối nội, Công an tỉnh Tuyên Quang cho biết: Dương Văn Mình (1961 - 2021) còn có tên gọi khác là Dương Súng Mình, nguyên quán ở xã Thượng Thôn, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Năm 1982, Dương Văn Mình di cư đến thôn Ngòi Sen, xã Yên Lâm, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Thời điểm năm 1989, Dương Văn Mình tập hợp một số đối tượng cốt cán lập nên tổ chức bất hợp pháp mang tên chính mình, hoạt động trên địa bàn 31 thôn bản, thuộc 10 xã tại 5 huyện của tỉnh Tuyên Quang là Hàm Yên, Yên Sơn, Chiêm Hóa, Na Hang và Sơn Dương, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của khoảng 76% đồng bào dân tộc Mông. Sau đó, tổ chức bất hợp pháp này lan nhanh sang một số tỉnh miền núi phía Bắc như: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên…, nơi có đồng bào dân tộc Mông sinh sống.


Đội an ninh công an huyện Na hang luôn thực hiện "4 cùng" với đồng bào Mông trên địa bàn huyện. Ảnh: TTXVN phát

Hơn 30 năm tồn tại, đội lốt hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình đã tập hợp quần chúng, lôi kéo đồng bào dân tộc Mông, tuyên truyền tư tưởng sai trái, mục đích lập "Nhà nước riêng của người Mông" do Dương Văn Mình làm "vua", gây phức tạp về an ninh trật tự.

Ông Ma Văn Hùng, Bí thư Đảng ủy xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn - một trong những địa bàn phức tạp, từng có người dân tin, nghe theo tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình thông tin: Xã Hùng Lợi có gần 1.700 hộ dân, 97% là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó dân tộc Mông chiếm cao nhất với 45%. Thời điểm đầu năm 2022, Hùng Lợi vẫn còn có 8/16 thôn với khoảng 49% đồng bào Mông tin, nghe theo tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình. Cơ bản những hộ dân này có đời sống rất khó khăn, nhận thức hạn chế, nhẹ dạ tin theo những luận điệu lừa bịp của Dương Văn Mình bỏ bê đồng ruộng, không chịu làm ăn dẫn đến cuộc sống càng ngày càng khó khăn, thiếu thốn.

Cũng theo ông Ma Văn Hùng, các đối tượng cốt cán của tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình tập hợp nhân dân xây dựng “nhà đòn”, “nhà nhỏ” để cất giữ các “biểu tượng tâm linh” bằng gỗ như con cóc, con ve, bàn khắc hình con én, cây thánh giá...sử dụng trong đám tang. Đây hoàn toàn là những thứ do Dương Văn Mình và tổ chức bất hợp pháp bịa đặt ra, không bắt nguồn từ phong tục tập quán truyền thống của người Mông.

Đời sống khốn khó vì tin theo tổ chức bất hợp pháp

Căn nhà gỗ xiêu vẹo chưa đầy 12m2 tại thôn Toòng, xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn là nơi sinh sống của vợ chồng anh Hầu Văn Sình cùng 5 đứa con nhỏ. Chiếc xe máy cũ mèm là tài sản lớn nhất của gia đình. Một thời gian dài, cả gia đình anh Sình tin tin theo lời dụ dỗ, những điều phi lý, lừa bịp của tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình. Anh Hầu Văn Sình chia sẻ, anh và gia đình cùng nhiều đồng bào được tuyên truyền rằng nếu đi theo Dương Văn Mình không làm cũng có ăn, người chết sống trở lại, người già lột xác trẻ lại, không học cũng biết chữ, ốm đau tự khỏi không cần đi bệnh viện, hay muốn khỏi ốm mang tiền đến cúng nộp để được tổ chức làm lễ cúng cho. Thế nhưng, sau hàng chục năm đi theo tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình, đời sống gia đình anh Sình vẫn chẳng khấm khá lên, thậm chí kinh tế càng thêm khó khăn.

Anh Ngô Văn Hồng (thôn 1A Thống Nhất, xã Yên Phú, huyện Hàm Yên) không nhớ được mình đã theo ông bà, bố mẹ đến bao nhiêu buổi sinh hoạt của tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình vào ngày Chủ nhật hằng tuần. Anh Ngô Văn Hồng cho biết, tại các buổi sinh hoạt, các đối tượng trong tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình đưa ra nhiều quan điểm sai lệch, dụ dỗ, xúi giục chống đối chính quyền, không nhận hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo, kích động khiếu kiện, chúng vận động người dân không tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 và 2016 - 2021.

Anh Lý Văn Chí (thôn 1A Thống Nhất, xã Yên Phú) đã từng bỏ ruộng nương, bỏ lao động sản xuất cả năm trời để đi theo các buổi hội hè, sinh hoạt, múa hát do Dương Văn Mình và các đối tượng cốt cán tổ chức. Anh Chí chia sẻ, trước đây, bố mẹ anh tin theo Dương Văn Mình, bỏ đi bàn thờ tổ tiên thay vào đó là biểu tượng của tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình. Nhiều người Mông cùng trang lứa với anh Chí bỏ ngang việc học hành bởi tin theo lý lẽ không đi học cũng biết chữ. Sau này, qua những lần đi làm ăn, tiếp xúc với môi trường bên ngoài và tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng, anh Chí dần không còn tin vào những lý lẽ của tổ chức bất hợp pháp nữa bởi những lý lẽ đó đều không mang lại lợi ích gì cho cuộc sống của gia đình anh.


Tiếp nhận sự hỗ trợ của Đảng, Nhà nước về cây trồng, vật nuôi, đồng bào Mông ở thôn Ngòi Sen, xã Yên Lâm đã chí thú làm ăn, phát triển kinh tế. Ảnh: TTXVN phát

Ông Vũ Văn Sỹ, Chủ tịch UBND xã Yên Phú cho biết, xã có 29 hộ đồng bào Mông sinh sống tại thôn 1A Thống Nhất. Đến đầu tháng 10/2022, vẫn còn 24 hộ với 128 khẩu bị ảnh hưởng bởi “tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình”. Những hộ theo tổ chức này thường sống thành một khu, cụm và thường không tham gia các hoạt động chung của địa phương, cuộc sống bị xáo trộn, kinh tế sa sút, luôn trong tình trạng đói nghèo. Điều này ảnh hưởng lớn đến các việc thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo của địa phương, ảnh hưởng đến các hoạt động của các thôn bản trong việc xây dựng các quy ước, hương ước giúp nâng cao đời sống cho bà con tại các thôn bản.

Theo Thượng tá Trần Xuân Thụ, Trưởng Phòng An ninh Đối nội, Công an tỉnh Tuyên Quang, những hoạt động của tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình đã mang đến những hệ lụy nghiêm trọng, không chỉ đối với những người trực tiếp bị ảnh hưởng mà còn tiềm ẩn nhiều bất ổn trong đời sống văn hóa, xã hội như phá bỏ đi những phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp từ lâu đời của đồng bào dân tộc Mông; tạo sự hoang mang, giao động, lo lắng cho quần chúng nhân dân; việc nâng cao dân trí cho nhân dân bị ảnh hưởng; tiềm ẩn nguy cơ gây xung đột về mặt an ninh trật tự giữa người theo tín ngưỡng truyền thống, người theo đạo Tin lành và người theo tổ chức bất hợp pháp...

Vũ Quang - Thu Huyền, Nguồn: Tin tức TTXVN

 Ngày 5/4, máy bay Bell-505, số hiệu VN-8650 của Công ty Trực thăng Miền Bắc thuộc Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam (Binh đoàn 18) do Đại tá Chu Quang Minh điều khiển đã gặp nạn và dẫn đến thương vong cùng với 4 du khách. Bên cạnh những lời chia sẻ về đau thương mất mát thì cũng nhiều người thắc mắc, thậm chí là có những luận điệu công kích về việc tại sao Đại tá Chu Quang Minh lại lái trực thăng phục vụ du lịch để rồi gặp nạn?

Sáng 15-10, từ ga trực thăng Gia Lâm (Hà Nội), Công ty Trực thăng miền Bắc (TTMB), Binh đoàn 18 (Bộ Quốc phòng) đã tổ chức cho trực thăng Mi-172 cất cánh bay sang Indonesia thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ bay cứu hỏa

Thực ra, Công ty trực thăng miền Bắc là doanh nghiệp 100% Nhà nước thuộc Tổng công ty trực thăng Việt Nam (Binh đoàn 18, Bộ Quốc phòng). Công ty là một trong những doanh nghiệp của Bộ Quốc phòng được thành lập ra để thực hiệm nhiệm vụ tham gia vào sản xuất kinh tế. Hiện, Bộ Quốc phòng đang quản lý, giao nhiệm vụ quân sự quốc phòng cho 83 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, 20 doanh nghiệp cổ phần. Ngoài ra, còn có các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hai thành viên, là công ty con của công ty mẹ tập đoàn đang được giao nhiệm vụ quân sự, quốc phòng nhưng chưa đủ cơ sở pháp lý để được công nhận là doanh nghiệp quốc phòng.

Những năm qua, các doanh nghiệp quân đội đã tạo ra khoảng 5% GDP. Tức trung bình mỗi năm GDP của đất nước khoảng 300 tỷ USD, thì doanh nghiệp Quốc phòng đóng góp khoảng 15 đến 20 tỷ USD. Cạnh đó, mỗi năm, doanh nghiệp quốc phòng đóng góp cho Ngân sách nhà nước khoảng 40.000-50.000 tỷ đồng, bằng khoảng 25% đóng góp của các doanh nghiệp Nhà nước.

Thực tế, quân đội tham gia hoạt động sản xuất là truyền thống có từ khi mới được thành lập. Hoạt động này được khuyến khích nhằm hạn chế gánh nặng cho nhà nước và làm tăng sự gắn kết giữa quân đội với nhân dân, vừa góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Việt Nam từng thành lập một số đơn vị quân đội có nhiệm vụ phát triển kinh tế kết hợp phòng thủ tại một số địa bàn chiến lược. Đơn cử như các Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Trực thăng Việt Nam, Tổng công ty Trường Sơn, các Binh đoàn 15, 16 đứng chân trên các địa bàn chiến lược, tham gia phát triển kinh tế xã hội, vùng sâu, vùng xa, xóa đói giảm nghèo, ổn định dân cư vùng khó khăn, biên giới, xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh, là “phên giậu” của Tổ quốc trên các vùng chiến lược.

Hiện nay, quân đội cũng đã cải tổ việc hoạt động kinh tế. Quân ủy Trung ương đã quy hoạch hệ thống doanh nghiệp trong Quân đội với các tiêu chí. Thứ nhất, phải là doanh nghiệp trực tiếp phục vụ nhiệm vụ quốc phòng kết hợp làm kinh tế; Thứ hai, doanh nghiệp Quân đội phải tổ chức chặt chẽ theo đúng mô hình tái cơ cấu mà Chính phủ quy định; Thứ 3, doanh nghiệp quân đội phải làm đúng luật, không có biệt lệ. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh từng cho biết: “Quân đội đã từng có gần 200 doanh nghiệp, vừa qua đã rút xuống còn hơn 80 và trong đề án do Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng báo cáo chính phủ, hiện vẫn còn 17 doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào thực sự cần thiết, thực sự làm ăn đứng đắn, thực sự tuân thủ luật pháp thì mới được tồn tại“.

Soi chiếu vào sự việc trên thì, Công ty trực thăng miền Bắc được Cục Hàng không Việt Nam cấp giấy chứng nhận khai thác tàu bay số 200405, được gia hạn hiệu lực tới ngày 28/2/2024, đáp ứng tiêu chuẩn của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam và các tiêu chuẩn an toàn cao. Đơn vị này đang đang khai thác hai tàu bay Bell-505 với số đăng ký là VN-8650 và VN-8651. VN-8650 có tổng số giờ bay cho tới khi gặp nạn là 488 giờ, với 2.655 lần cất/hạ cánh. Và phi công Chu Quang Minh có giấy phép lái tàu bay thương mại còn hiệu lực đến tháng 6/2026. Có nghĩa là mọi thứ hiện tại đang tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.

Lại nói, quân đội làm kinh tế được thực hiện tại nhiều quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia, Pakistan, Ecuador, Honduras, Peru, Ai Cập, Myanmar, Hoa Kỳ, Pháp… Đây là hiện tượng phổ biến có từ rất lâu trong lịch sử thế giới. Tuy vậy, mặc dù xây dựng kinh tế luôn là chức năng nhiệm vụ hết sức quan trọng của quân đội trong quá khứ, hiện tại và tương lai nhưng lại là điểm mà các thế lực thù địch tập trung chống phá. Và sự việc lần này cũng không loại trừ, thế nhưng đó chỉ là lý luận cùn của những kẻ soi mói thích đâm chọc, hằn học và luôn trục lợi từ mất mát của dân tộc.

Công Luân

 

Mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của các thế lực thù địch là chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiêu bài thâm độc, nham hiểm, gây mất đoàn kết, chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Điên cuồng nhất là những tên phản động người Việt lưu vong, còn mang hận thù cá nhân, tiếc nuối chế độ Việt Nam cộng hòa đã sụp đổ, hòng ôm mộng ảo tưởng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hồng Dân chính là kẻ như thế, trên “Vietnamthoibao”, đã đăng tải bài viết: Thử phản biện về “chính trị nhất nguyên”, Y đã lấy Singapore làm hình mẫu, ca ngợi thể chế chính trị dân chủ, đa đảng của đất nước này để so sánh, phê phán Việt Nam là “bảo thủ”, “độc tài, toàn trị” … Thực chất đây là những thủ đoạn dọn đường cho sự hình thành tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hòng vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dù có “trăm phương nghìn kế”, các thế lực thù địch cũng không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên về niềm tin của nhân dân ta đồng lòng đi theo Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với những thành tựu to lớn đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và lịch sử.

Trước tiên, cần phải khẳng định rằng: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là cần thiết, tất yếu, khách quan, là chính danh, hợp hiến và hợp pháp. Được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ, đồng thuận được quy định trong Hiến pháp, trong Cương lĩnh và trong Điều lệ Đảng. Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Thứ hai, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định trong thực tế cách mạng và được nhân dân thừa nhận. Việt Nam từng có thời kỳ đa đảng: Năm 1946, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại hai đảng đối lập là Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh Hội. Hai đảng này đã bám gót ngoại bang, nên không được nhân dân chấp nhận. Có thời kỳ, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944-1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (1946-1988), hai đảng này cũng không được đa số nhân dân giao cho sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng và tự giải tán.

Thứ ba, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế kiểm nghiệm, nhất là vào những bước ngoặt của lịch sử. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thắng lợi: Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Thứ tư, Nhân dân Việt Nam đã thừa nhận và ủy quyền Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Ngay từ khi ra đời Đảng luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, được Nhân dân thương yêu, đùm bọc, che chở và xây dựng. Hơn 93 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận rõ hơn ai hết, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có một lực lượng, một tổ chức nào có thể đại diện chân chính cho lợi ích của mình. Vì thế, nhân dân tin tưởng trao quyền lãnh đạo cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ năm, ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước và xã hội. Để xứng đáng với sự tin cậy của Nhân dân, Đảng đã đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong, vai trò của Đảng cầm quyền và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.

Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hiển nhiên, là sự lựa chọn và giao phó của lịch sử, của nhân dân và dân tộc Việt Nam, Đảng không tranh giành vai trò lãnh đạo với bất kỳ đảng phái nào. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà Nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng 93 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai trái của Hồng Dân cũng như các thế lực thù địch, phản động và chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Đó là sự thật không thể phủ nhận./.

Nhân văn Việt

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.