Chủ nghĩa Mác – Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến quyền của quần chúng nhân dân với những người lãnh đạo của mình.

Theo quan điểm của Lênin, nhân dân có quyền cử ra cũng như có quyền thay đổi và kiểm tra, hiểu rõ về các hoạt động của những người lãnh đạo. Lênin từng chỉ rõ: “Quần chúng phải có quyền được tự mình cử ra những người lãnh đạo có trách nhiệm. Quần chúng phải có quyền được thay đổi những người lãnh đạo của mình, phải có quyền được hiểu rõ và kiểm tra mỗi một bước nhỏ nhất trong hoạt động của những người đó”.

Là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định “Đảng là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Tư tưởng ấy xuyên suốt quá trình ra đời, trưởng thành, phát triển, lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam của Đảng cũng như hệ thống chính trị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào – đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Người chỉ rõ: “Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân”. Ngày 24 – 1 – 1947, trong Thư chúc Tết đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ai cũng biết rằng; trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ làng xã đến toàn quốc những người chức trách đều do dân cử ra. Dân tin cậy ai thì người ấy trúng cử và bổn phận những người trúng cử là làm đầy tớ công cộng cho dân chứ không phải làm quan phát tài”.

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: để Đảng, Chính phủ thực hiện tốt nhiệm vụ của mình với nhân dân thì các tổ chức Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước phải thật sự vì nhân dân phục vụ. Nói chuyện với anh em công chức Thủ đô vào ngày 30 – 11 – 1954, Người nhấn mạnh: “Bất kỳ ở địa vị nào, làm công việc gì, chúng ta đều là đầy tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy, chúng ta cần phải cố gắng thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. Tháng 3 – 1947, khi viết về Đời sống mới, Hồ Chủ tịch yêu cầu: “Cán bộ của làng phải là người trong sạch, công bình, thạo việc, có thể làm gương cho dân làng; có thể hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung”.

Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước phải luôn trung thực với nhân dân, không được giấu giếm nhân dân, phải để nhân dân hưởng quyền được biết về công việc của Đảng, của Chính phủ, quyền kiểm tra giám sát, thụ hưởng theo đúng quy định của Đảng, của Nhà nước, của pháp luật. Đây phải thật sự là việc cần thiết, sự cầu thị của Đảng, Nhà nước với nhân dân. Ngày 10 – 10 – 1954, trong Lời kêu gọi nhân dân Thủ đô giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu nguyện vọng của Chính phủ là rất mong được nhân dân giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình, là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến quyền của công dân trong việc tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới được thành lập và trong bối cảnh kháng chiến toàn quốc cam go, ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thẳng thắn nêu rõ vấn đề người dân có quyền giám sát cán bộ để phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực. Ngày 10 – 1 – 1946, phát biểu trước nông dân và điền chủ tỉnh Hưng Yên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nước ta thời Pháp thuộc, thực dân Pháp lấy tiền quỹ để đắp đê, nhưng chúng chỉ bỏ vào việc đắp đê rất ít, còn bỏ vào túi chúng. Bây giờ ta được độc lập, công việc đắp đê không phải là việc riêng của Chính phủ mà là của tất cả mọi quốc dân. Dân chúng có quyền kiểm soát việc làm để đề phòng những việc nhũng lạm có thể xảy tới”. Khi bàn về vấn đề Cần kiệm liêm chính, vào khoảng tháng 6 – 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: “Quan tham vì dân dại. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm cũng phải hóa ra LIÊM. Vì vậy, dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ Liêm”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường xuyên yêu cầu, động viên nhân dân  cần phải thực hiện tốt quyền của mình đối với Đảng, Nhà nước. Người nhắc nhở nhân dân phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả mối quan hệ hữu cơ giữa quyền và nghĩa vụ, quyền phải đi liền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân. Trong bài báo Đạo đức công dân đăng trên Báo Nhân Dân ngày 15 – 1 – 1954, Người viết: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”. Người chỉ rõ: công dân phải tuân theo pháp luật Nhà nước, kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung; phải đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung. Đồng thời công dân phải hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng và bảo vệ Tổ quốc.

Những tư tưởng trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam và hệ thống chính trị quán triệt, triển khai thực hiện tích cực, hiệu quả trên thực tế lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Qua đó, Đảng, Nhà nước, các tổ chức, cơ quan, đơn vị cũng như cán bộ, đảng viên đã ngày càng phấn đấu rèn luyện để xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

Trong khi đó thì thật là vô lý khi các thế lực thù địch, thế lực xấu trắng trợn chống phá mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân và nhân dân với Đảng của mình. Chúng xuyên tạc rằng Đảng độc tài, bóp nghẹt mọi quyền lợi của người dân; Đảng chỉ lo lợi ích của Đảng, bỏ mặc nhân dân đói khổ; nhân dân bất bình, mất hết niềm tin vào Đảng. Tháng 3 – 2023 vừa qua, một đối tượng xấu lu loa rằng sở dĩ ở Việt Nam chưa đoàn kết được là: “vì những quyết định tự tung tự hứng” của Đảng “mà tình trạng chia rẽ, mất đoàn kết giữa dân và Đảng mở rộng…” và “càng sống lâu, Đảng càng chia rẽ dân tộc và gây ra đổ vỡ, tụt hậu cho đất nước”…

Sự chống phá trên của các thế lực thù địch, thế lực xấu không đánh lừa được ai và chỉ làm cho dư luận hiểu rõ thêm bản chất xấu độc của những thông tin chúng đưa ra, đồng thời củng cố, tăng cường quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của chúng mà thôi.

Trong tình hình mới của cách mạng nước ta hiện nay, quyền của nhân dân càng được Đảng, Nhà nước quan tâm. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; Nghị quyết Trung ương năm, khóa XIII, đề ra nội dung rất cụ thể: “Xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa tổ chức cơ sở đảng, đảng viên với nhân dân; lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên”.

Thực tế cách mạng Việt Nam thời gian qua cho thấy: những nội dung quan trọng liên quan đến quyền, nghĩa vụ của nhân dân đã luôn được tiến hành tích cực, có hiệu quả từ hai phía, nhân dân tự nguyện, tự giác và Đảng, Nhà nước tạo thuận lợi để nhân dân thực hành tốt quyền và nghĩa vụ của mình. Mỗi người chúng ta hãy tin tưởng, chờ đợi và tích cực cùng “Người đầy tớ trung thành của nhân dân” thực hiện tốt nhất phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”./.

Công Minh - Nguồn: Hương Sen Việt

 

Trong thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động thường tán phát những tài liệu bịa đặt, xuyên tạc, hướng lái dư luận nhận thức sai lệch về vai trò của đội ngũ trí thức nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, chống phá cách mạng. Bài viết “Đất nước đang cần gấp một tầng lớp trí thức chính trị” của Việt Hoàng đăng tải trên trang “Thongluan-rdp” là một trong số đó.

Thứ nhất, xuyên tạc vai trò của đội ngũ trí thức trong lịch sử dân tộc, đặc biệt trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng

Việt Hoàng cho rằng, “Tầng lớp sĩ phu (trí thức) ngày xưa sinh ra chỉ để phục vụ vô điều kiện cho vua chúa chứ không phải để phục vụ nhân dân, càng không phải để thay đổi xã hội. Sau khi chế độ phong kiến kết thúc thì nước ta lại rơi vào chủ nghĩa cộng sản mà bản chất của nó cũng là một chế độ phong kiến có cải biên”. Đây là luận điệu xuyên tạc về vai trò của đội ngũ trí thức trong lịch sử dân tộc, nhất là trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong lịch sử dân tộc, Việt Nam đã đánh giá cao vai trò của trí thức: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn”. Tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trên một tấm bia Tiến sĩ có ghi: “Các bậc hiền nhân tài giỏi là yếu tố cốt tử đối với một chính thể. Khi yếu tố này dồi dào thì đất nước phồn thịnh. Khi yếu tố này kém cỏi thì đất nước suy yếu. Những người tài giỏi là một sức mạnh đặc biệt quan trọng đối với đất nước”. Đây là những quan niệm rất rõ ràng về hiền tài, về giới trí thức. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, trí thức có đóng góp quan trọng trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Họ luôn hy sinh, cống hiến vì độc lập dân tộc, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, được nhân dân ghi nhận, lập đền, miếu thờ.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trí thức Việt Nam là một lực lượng quan trọng của cách mạng, luôn xung kích đi đầu trên mặt trận khoa học – công nghệ và văn hoá. Trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, trí thức Việt Nam, bằng công sức và trí tuệ của mình, cùng với khối liên minh công nông đã đóng góp to lớn làm cho cuộc kháng chiến nhanh đi đến thắng lợi, thu non sông về một mối, thống nhất đất nước. Hàng loạt những học sinh, sinh viên yêu nước, giác ngộ cách mạng đã trở thành cán bộ, đảng viên, giữ vị trí quan trọng trong bộ máy Đảng, Nhà nước trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Đức Cảnh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu…. Nhiều trí thức trưởng thành trong nước hay từ nước ngoài trở về như: Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ, Tạ Quang Bửu, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Nghiêm Xuân Yêm, Trần Đại Nghĩa, Lương Định Của, Tôn Thất Tùng, Phạm Huy Thông, Trần Duy Hưng, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu … đã đi theo cách mạng ngay từ những ngày đầu độc lập, sẵn sàng chịu đựng những thử thách khó khăn, gian khổ, hy sinh trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, đóng góp tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho đất nước.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định tầm quan trọng của đội ngũ trí thức, có các chủ trương, chính sách phù hợp. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới”.

Nhờ có các chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, đã tạo ra những chuyển biến rất tích cực, góp phần tạo động lực cho sự phát triển của đội ngũ trí thức, để họ đóng góp tốt hơn cho quá trình đổi mới, phát triển đất nước. Những năm qua, đội ngũ trí thức trực tiếp tham mưu, góp ý, phản biện vào những quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước, góp phần xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách, hoạch định và triển khai thực hiện có hiệu quả các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở.

Thứ hai, cổ súy cho cái gọi là “Tập hợp dân chủ đa nguyên”

Với nhận thức, “Trí thức chính trị chẳng liên quan gì đến bằng cấp và tư cách trí thức chỉ đặt ra với những người có quan tâm đến chính trị và xã hội”, Việt Hoàng cổ súy cho một tầng lớp được gọi là “trí thức chính trị” mà tổ chức “Tập hợp dân chủ đa nguyên” là điển hình, hạt nhân, là “tương lai của dân tộc”. Theo y, tổ chức này “không giống với truyền thống dân tộc”, thậm chí “đã đi trước đồng bào mình khá xa”, “là tổ chức chính trị đã thay đổi hoàn toàn văn hóa và tư duy chính trị cho người Việt” hay “không xem Đảng Cộng sản là kẻ thù”, “không có kẻ thù và sẽ không làm hại bất cứ ai”.

Năm 1982, tổ chức “Tập hợp dân chủ đa nguyên” của một nhóm tự nhận là “trí thức cùng thao thức với đất nước” được “sinh non”, “nhằm mục đích duy nhất là dân chủ hóa đất nước”. Trên thực tế, tổ chức này là một cái “lẩu thập cẩm” quy tụ những người Việt Nam thuộc nhiều lứa tuổi, mọi quá khứ chính trị và nhiều cương vị, trong cũng như ngoài nước, trong đó, thành phần chủ yếu là viên chức và sĩ quan ngụy quyền Sài Gòn trước năm 1975 đang sống lưu vong ở nước ngoài. Tôn chỉ của tổ chức này suy cho cùng cũng chỉ đòi hỏi “Đảng Cộng sản Việt Nam phải từ bỏ vị thế lãnh đạo, thay đổi Cương lĩnh xây dựng đất nước, phải chuyển đổi thể chế chính trị”. Đây là những luận điệu phản động không có một chút giá trị gì nhưng bằng các chiêu trò giả mạo, cắt xén, ngụy tạo bằng chứng để vu cáo, tạo thật – giả lẫn lộn, biến có thành không, không thành có, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã khiến không ít người nhẹ dạ, có nhận thức hạn chế tin và nghe theo. Chúng thực chất chỉ là những “trí thức rởm”, đám “lưu manh chính trị”, lực lượng chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ.

Từ những luận giải trên cho thấy, đội ngũ trí thức ở nước ta luôn gắn bó chặt chẽ với vận mệnh dân tộc, vì nước, vì dân. Từ khi có Đảng lãnh đạo, đội ngũ trí thức luôn được quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi để cống hiến cho nhân dân, đất nước. Chúng ta tự hào vì có những “nguyên khí quốc gia” luôn đồng hành cùng dân tộc, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng ta không cần và trừng trị nghiêm minh với thứ trí thức “rởm”, cái gọi là “trí thức chính trị” mà tổ chức “Tập hợp dân chủ đa nguyên” là hạt nhân, vì tư lợi, bất mãn mà làm trái với luân thương đạo lý, đi ngược lại với lợi ích chung của dân tộc. Đồng thời, đây là cơ sở bác bỏ luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động về vai trò của đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay./.

Nhân văn Việt

 Hội nghị tổng kết thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chủ tịch nước đề nghị tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò tiên phong của đối ngoại trong bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy."



Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng phát biểu chỉ đạo. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Sáng 6/4, tại Hà Nội, Ban Cán sự Đảng Bộ Ngoại giao tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới."

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, Trưởng Ban chỉ đạo tổng kết Nghị quyết dự và chỉ đạo hội nghị. Cùng dự có lãnh đạo một số ban, bộ, ngành Trung ương.

Báo cáo tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn cho biết, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và triển khai Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI là một nhiệm vụ trọng tâm của Bộ trong 10 năm qua.

Phát huy vai trò tiên phong, ngoại giao cùng quốc phòng, an ninh và các lực lượng triển khai đồng bộ, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 8.

Quan hệ với các đối tác ngày càng đi vào chiều sâu, ổn định, góp phần quan trọng vào việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước; góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; làm thất bại mọi âm mưu chống phá trong các lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo.

Qua thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc đã thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; nâng tầm ngoại giao đa phương, tăng cường sự hiện diện tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.

Các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân phối hợp ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả.

Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đánh giá cao thành tựu của đối ngoại và ngoại giao, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó nổi bật là góp phần quan trọng củng cố vững chắc cục diện đối ngoại thuận lợi cho việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Chủ tịch nước nhấn mạnh đối ngoại và ngoại giao đã góp phần tạo những bước phát triển quan trọng trong các khuôn khổ quan hệ đối ngoại, nhất là với các nước láng giềng, các đối tác quan trọng, các nước bạn bè truyền thống, từ đó tạo dựng mạng lưới quan hệ ngày càng rộng mở, đi vào chiều sâu, ổn định; giữ vững đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác.

Các hoạt động đối ngoại và ngoại giao còn góp phần củng cố đại đoàn kết dân tộc, vận động kiều bào tham gia đóng góp vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; củng cố và nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, nhất là tại các diễn đàn đa phương quan trọng; đồng thời, huy động nhiều nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế-xã hội.

Chủ tịch nước nêu rõ tình hình quốc tế đang chuyển biến phức tạp, đặt ra những vấn đề mới cho công tác đối ngoại cũng như sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Do đó, Bộ Ngoại giao cần tiếp tục quán triệt, triển khai những định hướng của Nghị quyết Trung ương 8 và những định hướng lớn của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết của Đại hội XIII và Nghị quyết 34-NQ/TW về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.


Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và các đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Chủ tịch nước đề nghị cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò tiên phong của đối ngoại trong bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy," quán triệt sâu sắc chỉ đạo, định hướng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về bản sắc ngoại giao “cây tre Việt Nam,” “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển,” “dĩ bất biến, ứng vạn biến.”

Đồng thời, tiếp tục giữ vững và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước, các đối tác, củng cố và tăng cường tin cậy chính trị, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở giữ vững lập trường, nguyên tắc, ứng xử linh hoạt, sáng tạo, khôn khéo.

Chủ tịch nước chỉ đạo ngành ngoại giao cần đẩy mạnh ngoại giao kinh tế hiệu quả, thực chất, góp phần tăng cường tiềm lực đất nước; phát huy tối đa thế và lực mới của đất nước, nâng cao hơn nữa vị thế quốc gia.

Ngành ngoại giao cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh và các cấp, các ngành tăng cường hơn nữa công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược để đáp ứng yêu cầu bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới; không ngừng tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức; bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên về bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu xây dựng nền ngoại giao Việt Nam vững mạnh, chuyên nghiệp, toàn diện, hiện đại.

Cũng nhân dịp này, Bộ Ngoại giao đã tổ chức khen thưởng cho các tập thể có thành tích xuất sắc trong 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI)./.

PV - Nguồn: TTXVN/Vietnamplus

 Chuẩn mực đạo đức cách mạng hiện nay của cán bộ, đảng viên đối với công việc phải được xây dựng trên cơ sở kế thừa văn hóa truyền thống của dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hóa đạo đức của thời đại mở cửa, hội nhập quốc tế.



Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo khoa học “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ngày 22/5/2022.

NHỮNG BIỂU HIỆN CỤ THỂ CỦA CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG ĐỐI VỚI CÔNG VIỆC

Đạo đức cách mạng là một trong những giá trị cốt lõi của người cán bộ, đảng viên; là yếu tố quan trọng tạo nên giá trị, vị thế, uy tín của người cán bộ, đảng viên trong xử lý các mối quan hệ xã hội và trong công việc. Bên cạnh yếu tố trí tuệ, tài năng, chuẩn mực đạo đức giúp cán bộ, đảng viên làm việc có mục đích, luôn kiên định và giữ vững mục tiêu, lý tưởng, thấy rõ bổn phận và trách nhiệm, điều chỉnh hành vi ứng xử, trong bất cứ hoàn cảnh nào; khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ hãi, chán nản, lùi bước.

Trong thực hiện công việc, đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên được thể hiện thông qua những phẩm chất, thái độ, tư duy, phương pháp, cách ứng xử với mục tiêu cao nhất là hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần hiện thực hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn. Thông qua công việc, người cán bộ được thực hành các tiêu chuẩn đạo đức, được thể hiện nhân cách, được bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của cá nhân, qua đó, góp phần lưu giữ, làm giàu truyền thống đạo đức của tập thể và của dân tộc. Đối với người đảng viên, đạo đức cách mạng là yếu tố quan trọng tạo nên bản chất của Đảng như Bác Hồ đã từng khẳng định “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”; sự giàu có về đạo đức cách mạng sẽ làm cho Đảng có đủ bản lĩnh, dũng khí, tư cách, tài năng lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Những tiêu chí cụ thể của chuẩn mực đạo đức đối với công việc được thể hiện ở nhiều khía cạnh, nhiều giá trị đã được khẳng định và đang được cán bộ, đảng viên thực hiện, đó là: Tinh thần yêu Tổ quốc, tự hào về truyền thống dân tộc; nắm vững và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; am hiểu công việc, tâm huyết với nghề nghiệp, thực hiện đúng chức trách, thẩm quyền, nhiệm vụ được giao; luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết và trước hết; có ý thức giữ gìn danh dự, phẩm giá, uy tín của cán bộ, đảng viên; có tinh thần đoàn kết, phối hợp, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong thực hiện nhiệm vụ được giao; thường xuyên tự soi, tự sửa, rút kinh nghiệm trong thực hiện nhiệm vụ để hoàn thiện bản thân, phát triển những giá trị mới của đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới. Thông qua công việc, những tiêu chuẩn, giá trị đạo đức nêu trên của người cán bộ, đảng viên được bộc lộ, được rèn luyện và được chuẩn hóa, phát triển lên tầm cao mới phù hợp với chức trách, nhiệm vụ đảm nhận.

Bên cạnh phần lớn cán bộ, đảng viên luôn tuân thủ và thực hành tốt đạo đức cách mạng đối với công việc, vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về nhiều mặt, trong đó có suy thoái về đạo đức công vụ với nhiều biểu hiện cơ bản như: Phai nhạt lý tưởng, lười học tập lý luận chính trị; chỉ lo vun vén lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân; không chấp hành kỷ luật, kỷ cương; quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu khi giải quyết công việc liên quan đến tổ chức và nhân dân. Thực tế những năm qua, đã có hàng nghìn cán bộ, đảng viên vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống đã bị kỷ luật, trong đó, có cả những đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo thiếu gương mẫu, đạo đức, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cá nhân chủ nghĩa, không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao và phải chịu các hình thức kỷ luật đảng như cảnh cáo, cách chức, khai trừ ra khỏi Đảng; bị pháp luật trừng trị, khởi tố, bắt giam. Trong 10 năm qua, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 8 Ủy viên, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Điều đó đặt ra yêu cầu phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên đối với công việc để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các sai phạm của cán bộ, đảng viên ngay từ khi mới phát sinh.

HOÀN THIỆN CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN ĐỐI VỚI CÔNG VIỆC TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Chuẩn mực đạo đức cách mạng hiện nay của cán bộ, đảng viên đối với công việc phải được xây dựng trên cơ sở kế thừa văn hóa truyền thống của dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hóa đạo đức của thời đại mở cửa, hội nhập quốc tế. Mục tiêu của hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng là để cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi, ứng xử trong công việc hằng ngày, hoàn thiện bản thân, xây dựng giá trị chung của cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới. Chuẩn mực đạo đức phải bám sát và phục vụ nhiệm vụ chính trị đang đảm nhiệm, phù hợp với môi trường, điều kiện làm việc mới như không gian mạng, môi trường số.

Việc tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên là yêu cầu vừa cấp thiết vừa có ý nghĩa chiến lược trong việc xây dựng và hoàn thiện nhân cách, phẩm chất văn hóa của con người Việt Nam trong thời đại mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng đã đặt ra yêu cầu các cơ quan chức năng “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần Đảng ta là đạo đức, là văn minh cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”(1).

Dưới góc độ nghiên cứu, các chuẩn mực đạo đức cách mạng của người đảng viên đối với công việc cần được chuẩn hóa theo các nhóm sau đây:

Thứ nhất, nhóm chuẩn mực đạo đức về hệ tư tưởng, ý thức chính trị gồm các yếu tố làm nên tiêu chuẩn chính trị của người cán bộ đảng viên như lòng trung thành, sự tin tưởng, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của bản thân; nghiêm chỉnh chấp hành, tuân thủ mọi chủ trương, đường lối của Đảng, kỷ luật đảng; không suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống; không có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, luôn có ý chí, khát vọng cống hiến vì sự phát triển của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.

Thứ hai, nhóm chuẩn mực đạo đức về pháp luật là các tiêu chí thể hiện sự tuân thủ, thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị nơi công tác; giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, giữ nghiêm kỷ luật, bảo đảm cho một xã hội luôn được vận hành một cách trật tự, có kỷ luật, kỷ cương.

Thứ ba, nhóm chuẩn mực đạo đức về quan hệ xã hội là các tiêu chí về mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với cấp trên, cấp dưới và đồng nghiệp, với nhân dân, với đối tác trong thực thi nhiệm vụ được giao. Trong đó, cần chú trọng đến các giá trị như sự trung thực, sự tận tụy, tận tâm, tinh thần đoàn kết, tương trợ nhau trong công việc. Đặc biệt là trong sự tương tác, giải quyết công việc liên quan đến nhân dân, người cán bộ, đảng viên phải có các phẩm chất đạo đức: tôn trọng nhân dân, tin dân, gần dân và học dân.

Thứ tư, nhóm chuẩn mực đạo đức về khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Hiện nay, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang phát triển mạnh mẽ, việc ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ được thực hiện ở hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề, đòi hỏi người cán bộ, đảng viên cũng cần có những tiêu chuẩn, tiêu chí về đạo đức cách mạng như sử dụng đúng mục đích, sử dụng tiết kiệm và bảo quản tốt tài sản các phương tiện cơ sở, vật chất, trang thiết bị; giữ gìn bí mật quốc gia, tích cực tham gia phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng.

Thứ năm, nhóm chuẩn mực đạo đức trong quan hệ quốc tế. Đất nước ta đang chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng nhằm tận dụng thời cơ, nguồn lực từ quốc tế phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cán bộ, đảng viên khi thực hiện nhiệm vụ ngoại giao, quan hệ quốc tế cũng cần phải có những tiêu chuẩn phẩm chất, đạo đức như tinh thần hòa hiếu, lòng vị tha, ứng xử văn hóa, có trách nhiệm, ham học hỏi, cầu tiến bộ.


Đồng chí Võ Văn Thưởng và các đại biểu tham quan triển lãm ảnh và sách “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ngày 22/5/2022.

Song song với các nhóm chuẩn mực nêu trên, cần đẩy mạnh giáo dục đạo đức và quy định chế độ học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên.

Với tư cách là bộ phận ưu tú của dân tộc, thành viên của đội tiên phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, cán bộ, đảng viên ở bất cứ vị trí công tác nào cũng đều phải tiên phong gương mẫu trong rèn luyện, tu dưỡng, thực hành đúng đắn các chuẩn mực đạo đức cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Mỗi cán bộ, đảng viên cần xác định tâm thế rèn luyện đạo đức cách mạng thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi, gắn với thực tiễn công việc của bản thân để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Bên cạnh sự tự giác của cá nhân, các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị cũng cần tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng để cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi, ứng xử trong công việc hàng ngày, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách, không bị cám dỗ bởi tiền tài, vật chất, danh vọng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội. Đồng thời, cần quy định chế độ học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên thông qua thực hành công việc, thực hiện chức trách, nhiệm vụ.

Sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời gian tới bên cạnh những thuận lợi, thời cơ cũng có không ít khó khăn, thách thức, nguy cơ, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ có tri thức, năng lực mà còn phải có lòng nhiệt tình cách mạng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có khát vọng cống hiến, phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; không tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; chống chủ nghĩa cá nhân; trọng dân, tin dân, học dân, vì nhân dân, tất cả vì sự phát triển đất nước phồn vinh, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Đó là những biểu hiện của chuẩn mực đạo đức cao đẹp mà mỗi cán bộ, đảng viên phải hướng tới để hoàn thiện nhân cách, phẩm chất của mình, để hoàn thành nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó./.
Chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên đối với công việc được hiểu là những quy định về tiêu chuẩn, nguyên tắc, thước đo hành vi chuẩn mực mà mỗi cán bộ, đảng viên khi thực thi nhiệm vụ đều phải có và tuân thủ. Trong từng giai đoạn, từng công việc khác nhau, các chuẩn mực đạo đức không chỉ được cán bộ, đảng viên thường xuyên rèn luyện thực hành, trau dồi, đồng thời bổ sung, phát triển những chuẩn mực đó lên tầm cao mới cho phù hợp với thời đại, với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Chuẩn mực đạo đức cách mạng được thể hiện bằng các chuẩn giá trị như lòng trung thành, tính trung thực, tận tụy, trách nhiệm, chấp hành kỷ luật, kỷ cương, quy định của pháp luật; luôn có tinh thần đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dấn thân vì sự nghiệp chung, vì thế nó được coi là những căn cứ để đánh giá phẩm chất, nhân cách, thái độ, hành vi của cán bộ, đảng viên, đồng thời là điều kiện để cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao./.
Trung tướng, PGS.TS. Trần Vi Dân, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Cục trưởng Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử, Bộ Công an.

Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo Trung ương

 

Trong giờ phút thiêng liêng được kết nạp vào Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều thề trước cờ Đảng và hình ảnh lãnh tụ, suốt đời đấu tranh phấn đấu theo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tuyệt đối trung thành và nghiêm chỉnh thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng, giữ gìn kỷ luật Đảng và phẩm chất, đạo đức của người cách mạng. Đó là lời thề danh dự định hướng rèn luyện, hành động của mỗi đảng viên, cán bộ.

Suốt các thời kỳ đấu tranh cách mạng, tuyệt đại đa số đảng viên, cán bộ đã thực hiện trọn vẹn lời thề đó, điều này có ý nghĩa quyết định sức chiến đấu, danh dự và uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Sự phấn đấu, hy sinh của các đồng chí lãnh đạo Đảng, của hàng nghìn, hàng vạn cán bộ, đảng viên đã cổ vũ, đoàn kết toàn dân tộc: giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của lịch sử dân tộc; đi tới toàn thắng trong các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc vì hòa bình, độc lập hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc; thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII khẳng định: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".

"Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng".

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có những thành công căn bản và quan trọng, bảo đảm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Song công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nhất là một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

"Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc".

Đảng đã thẳng thắn chỉ rõ 27 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" tại Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10/2016). Biểu hiện hàng đầu của sự suy thoái đó là: "Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh".

Không chỉ phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin, mà một bộ phận cán bộ, đảng viên còn có biểu hiện "Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái" và những biểu hiện sai trái khác. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: "Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị là căn bản và có ý nghĩa quyết định bảo đảm bản chất cách mạng, sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng là điều nguy hiểm nhất với sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Vì vậy, phải đấu tranh chống các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh đó càng đòi hỏi sự trong sạch trong nội bộ Đảng, phải ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.

Cách mạng và dân tộc Việt Nam từ năm 1930 đến nay do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã và đang phát triển trên con đường đúng đắn với những thắng lợi và thành tựu to lớn. Vì sao với hiện thực rõ ràng như vậy vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động, giảm sút niềm tin vào lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội? Cần thiết phải làm rõ nguyên nhân.

Có những người bị chi phối bởi quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho rằng sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm dẫn tới sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự thật là, đó là sự tan vỡ của một mô hình với những hạn chế và khuyết điểm hoàn toàn có thể điều chỉnh, sửa chữa được.

Chính sự phản bội và nhân danh tư duy chính trị mới đã phủ nhận thành quả vĩ đại của chủ nghĩa xã hội, đưa các nước đó rời bỏ con đường xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã sửa chữa những khuyết điểm của mô hình cũ bằng đường lối đổi mới. Kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội và đổi mới thành công đã làm cho nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.

Các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đã tổng kết điều đó. Đặc biệt, tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam công bố năm 2021 là sự phát triển quan trọng nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cần phải quán triệt và nhận thức sâu sắc những tổng kết có giá trị khoa học và hiện thực của Đảng trong từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đó là điều có vai trò quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị và phai nhạt lý tưởng cách mạng.

Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận, tư tưởng đó quyết định bản chất cách mạng, khoa học, bản lĩnh chính trị, sức chiến đấu của Đảng và cũng quyết định ý chí, lý tưởng cách mạng và phẩm chất chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên. Đảng nhiều lần nhấn mạnh, học tập, nghiên cứu nền tảng tư tưởng của Đảng không phải là thuộc lòng câu chữ mà phải nắm vững giá trị mang tính quy luật, phương pháp luận khoa học để vận dụng sáng tạo và không ngừng phát triển.

Bộ Chính trị khóa XII chủ trương tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phê phán, bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Qua cuộc đấu tranh đó để toàn Đảng và nhân dân cảnh giác và góp phần nâng cao nhận thức về tư tưởng, lý luận, tăng sức đề kháng trong Đảng và toàn xã hội. Những người phai nhạt lý tưởng, dao động, giảm sút niềm tin, hoặc bị ảnh hưởng từ những luận điệu sai trái, thù địch, cố tình phụ họa, tiếp tay cho kẻ địch, hoặc do trình độ nhận thức hạn chế, bản lĩnh chính trị không vững vàng, ít chịu học tập, rèn luyện, tu dưỡng và cả sự chủ quan, kiêu ngạo, cố tình quay lưng lại với sự thật.

Vì vậy phải chú trọng công tác giáo dục, học tập, nghiên cứu lý luận chính trị một cách căn bản, sâu sắc, có hệ thống. Giáo dục sâu sắc, thiết thực lý luận chính trị có ý nghĩa rất quan trọng củng cố sức mạnh của Đảng về tư tưởng, chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi sự phai nhạt lý tưởng cách mạng.

Phòng ngừa sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào cũng cần phải tu dưỡng, rèn luyện tính tiên phong, đức hy sinh và phẩm chất đạo đức cách mạng. Hiểu biết sâu sắc đất nước, dân tộc mình, tự hào, tự tôn dân tộc, tự hào về truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc và không ngừng học tập. Học tập để nâng cao trình độ trí tuệ, hiểu biết lý luận, nhận thức đúng đắn quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để hành động tự giác, có hiệu quả.

Lý tưởng, mục tiêu của Đảng rất rõ ràng là độc lập dân tộc và xây dựng Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. Là cán bộ, đảng viên của Đảng phải tuyệt đối trung thành và phấn đấu vì lý tưởng cao cả đó. Làm sao để trong Đảng không có những đảng viên phai nhạt lý tưởng, càng không thể có đảng viên xa rời tôn chỉ mục đích của Đảng. Hãy luôn luôn ghi nhớ lời thề khi gia nhập Đảng./.

Nguồn: ĐẦU SÓNG NGỌN GIÓ

 

Mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của các thế lực thù địch là chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiêu bài thâm độc, nham hiểm, gây mất đoàn kết, chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Điên cuồng nhất là những tên phản động người Việt lưu vong, còn mang hận thù cá nhân, tiếc nuối chế độ Việt Nam cộng hòa đã sụp đổ, hòng ôm mộng ảo tưởng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hồng Dân chính là kẻ như thế, trên “Vietnamthoibao”, đã đăng tải bài viết: Thử phản biện về “chính trị nhất nguyên”, Y đã lấy Singapore làm hình mẫu, ca ngợi thể chế chính trị dân chủ, đa đảng của đất nước này để so sánh, phê phán Việt Nam là “bảo thủ”, “độc tài, toàn trị” … Thực chất đây là những thủ đoạn dọn đường cho sự hình thành tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hòng vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dù có “trăm phương nghìn kế”, các thế lực thù địch cũng không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên về niềm tin của nhân dân ta đồng lòng đi theo Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với những thành tựu to lớn đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và lịch sử.

Trước tiên, cần phải khẳng định rằng: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là cần thiết, tất yếu, khách quan, là chính danh, hợp hiến và hợp pháp. Được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ, đồng thuận được quy định trong Hiến pháp, trong Cương lĩnh và trong Điều lệ Đảng. Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Thứ hai, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định trong thực tế cách mạng và được nhân dân thừa nhận. Việt Nam từng có thời kỳ đa đảng: Năm 1946, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại hai đảng đối lập là Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh Hội. Hai đảng này đã bám gót ngoại bang, nên không được nhân dân chấp nhận. Có thời kỳ, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944-1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (1946-1988), hai đảng này cũng không được đa số nhân dân giao cho sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng và tự giải tán.

Thứ ba, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế kiểm nghiệm, nhất là vào những bước ngoặt của lịch sử. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thắng lợi: Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Thứ tư, Nhân dân Việt Nam đã thừa nhận và ủy quyền Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Ngay từ khi ra đời Đảng luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, được Nhân dân thương yêu, đùm bọc, che chở và xây dựng. Hơn 93 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận rõ hơn ai hết, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có một lực lượng, một tổ chức nào có thể đại diện chân chính cho lợi ích của mình. Vì thế, nhân dân tin tưởng trao quyền lãnh đạo cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ năm, ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước và xã hội. Để xứng đáng với sự tin cậy của Nhân dân, Đảng đã đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong, vai trò của Đảng cầm quyền và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.

Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hiển nhiên, là sự lựa chọn và giao phó của lịch sử, của nhân dân và dân tộc Việt Nam, Đảng không tranh giành vai trò lãnh đạo với bất kỳ đảng phái nào. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà Nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng 93 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai trái của Hồng Dân cũng như các thế lực thù địch, phản động và chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Đó là sự thật không thể phủ nhận./.

Nhân văn Việt

 Việt Nam kiên định giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế; ủng hộ việc các nước cùng nhau hợp tác giải quyết bất đồng trong vấn đề Biển Đông.



Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng trả lời câu hỏi của phóng viên. (Ảnh: Phương Uyên/TTXVN phát)

Chiều 6/4, tại họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết bình luận của Việt Nam về thông tin tàu Hải Dương Địa chất 4 của Trung Quốc thời gian qua có hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Bộ Ngoại giao khi đó đã đưa ra bình luận về thông tin này, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nhấn mạnh:

"Việt Nam khẳng định quan điểm nhất quán các hoạt động ở khu vực Biển Đông cần tuân thủ nghiêm túc luật pháp quốc tế, tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982."

Theo Phó Phát ngôn Phạm Thu Hằng, các lực lượng thực thi pháp luật trên biển của Việt Nam cho biết tàu Hải Dương Địa chất 4 đã rời khỏi vùng biển của Việt Nam.

Về thông tin Tổ chức Khoa học Tự nhiên Trung Quốc (NSFC) công bố danh sách 33 khu vực “khảo sát thường xuyên," trong đó có một số tuyến tại Biển Đông bao trùm lên quần đảo Trường Sa và vùng biển của Việt Nam, Phó Phát ngôn Phạm Thu Hằng nêu rõ: "Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế, cũng như quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982."

Bà Phạm Thu Hằng cho rằng việc khảo sát, nghiên cứu khoa học trong phạm vi quần đảo Trường Sa và vùng biển của Việt Nam được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 mà không được sự cho phép của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng biển của mình, do đó không có giá trị.

Trước thông tin, ngày 4/4, báo China Daily của Trung Quốc đăng một cuộc phỏng vấn với Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim đang có chuyến thăm nước này. Trong cuộc phỏng vấn, ông Anwar Ibrahim kêu gọi đối thoại để giải quyết tranh chấp trên Biển Đông và cho rằng đây không phải là vấn đề "không thể vượt qua," Phó Phát ngôn Phạm Thu Hằng nêu quan điểm của Việt Nam về phát ngôn trên và việc giải quyết khác biệt trên Biển Đông.

Bà Phạm Thu Hằng nêu rõ: Là quốc gia kiên định giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, Việt Nam ủng hộ việc các nước có thể cùng nhau hợp tác giải quyết bất đồng trong vấn đề Biển Đông, trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các nước, được xác định bởi Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982); đóng góp tích cực, thiết thực vào việc duy trì hòa bình, ổn định trật tự pháp lý trên biển, an toàn, tự do hàng hải và hàng không, thúc đẩy phát triển bền vững biển và đại dương.

"Với chủ trương trên, Việt Nam luôn sẵn sàng cùng các quốc gia liên quan đàm phán, giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ do lịch sử để lại, đóng góp tích cực vào quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và các nước, cũng như đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế giới," Phó Phát ngôn Phạm Thu Hằng khẳng định./.

Thu Phương - Nguồn: TTXVN/Vietnamplus

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.