Chuẩn mực đạo đức cách mạng hiện nay của cán bộ, đảng viên đối với công việc phải được xây dựng trên cơ sở kế thừa văn hóa truyền thống của dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hóa đạo đức của thời đại mở cửa, hội nhập quốc tế.



Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo khoa học “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ngày 22/5/2022.

NHỮNG BIỂU HIỆN CỤ THỂ CỦA CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG ĐỐI VỚI CÔNG VIỆC

Đạo đức cách mạng là một trong những giá trị cốt lõi của người cán bộ, đảng viên; là yếu tố quan trọng tạo nên giá trị, vị thế, uy tín của người cán bộ, đảng viên trong xử lý các mối quan hệ xã hội và trong công việc. Bên cạnh yếu tố trí tuệ, tài năng, chuẩn mực đạo đức giúp cán bộ, đảng viên làm việc có mục đích, luôn kiên định và giữ vững mục tiêu, lý tưởng, thấy rõ bổn phận và trách nhiệm, điều chỉnh hành vi ứng xử, trong bất cứ hoàn cảnh nào; khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ hãi, chán nản, lùi bước.

Trong thực hiện công việc, đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên được thể hiện thông qua những phẩm chất, thái độ, tư duy, phương pháp, cách ứng xử với mục tiêu cao nhất là hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần hiện thực hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn. Thông qua công việc, người cán bộ được thực hành các tiêu chuẩn đạo đức, được thể hiện nhân cách, được bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của cá nhân, qua đó, góp phần lưu giữ, làm giàu truyền thống đạo đức của tập thể và của dân tộc. Đối với người đảng viên, đạo đức cách mạng là yếu tố quan trọng tạo nên bản chất của Đảng như Bác Hồ đã từng khẳng định “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”; sự giàu có về đạo đức cách mạng sẽ làm cho Đảng có đủ bản lĩnh, dũng khí, tư cách, tài năng lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Những tiêu chí cụ thể của chuẩn mực đạo đức đối với công việc được thể hiện ở nhiều khía cạnh, nhiều giá trị đã được khẳng định và đang được cán bộ, đảng viên thực hiện, đó là: Tinh thần yêu Tổ quốc, tự hào về truyền thống dân tộc; nắm vững và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; am hiểu công việc, tâm huyết với nghề nghiệp, thực hiện đúng chức trách, thẩm quyền, nhiệm vụ được giao; luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết và trước hết; có ý thức giữ gìn danh dự, phẩm giá, uy tín của cán bộ, đảng viên; có tinh thần đoàn kết, phối hợp, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong thực hiện nhiệm vụ được giao; thường xuyên tự soi, tự sửa, rút kinh nghiệm trong thực hiện nhiệm vụ để hoàn thiện bản thân, phát triển những giá trị mới của đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới. Thông qua công việc, những tiêu chuẩn, giá trị đạo đức nêu trên của người cán bộ, đảng viên được bộc lộ, được rèn luyện và được chuẩn hóa, phát triển lên tầm cao mới phù hợp với chức trách, nhiệm vụ đảm nhận.

Bên cạnh phần lớn cán bộ, đảng viên luôn tuân thủ và thực hành tốt đạo đức cách mạng đối với công việc, vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về nhiều mặt, trong đó có suy thoái về đạo đức công vụ với nhiều biểu hiện cơ bản như: Phai nhạt lý tưởng, lười học tập lý luận chính trị; chỉ lo vun vén lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân; không chấp hành kỷ luật, kỷ cương; quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu khi giải quyết công việc liên quan đến tổ chức và nhân dân. Thực tế những năm qua, đã có hàng nghìn cán bộ, đảng viên vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống đã bị kỷ luật, trong đó, có cả những đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo thiếu gương mẫu, đạo đức, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cá nhân chủ nghĩa, không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao và phải chịu các hình thức kỷ luật đảng như cảnh cáo, cách chức, khai trừ ra khỏi Đảng; bị pháp luật trừng trị, khởi tố, bắt giam. Trong 10 năm qua, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 8 Ủy viên, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Điều đó đặt ra yêu cầu phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên đối với công việc để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các sai phạm của cán bộ, đảng viên ngay từ khi mới phát sinh.

HOÀN THIỆN CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN ĐỐI VỚI CÔNG VIỆC TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Chuẩn mực đạo đức cách mạng hiện nay của cán bộ, đảng viên đối với công việc phải được xây dựng trên cơ sở kế thừa văn hóa truyền thống của dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hóa đạo đức của thời đại mở cửa, hội nhập quốc tế. Mục tiêu của hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng là để cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi, ứng xử trong công việc hằng ngày, hoàn thiện bản thân, xây dựng giá trị chung của cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới. Chuẩn mực đạo đức phải bám sát và phục vụ nhiệm vụ chính trị đang đảm nhiệm, phù hợp với môi trường, điều kiện làm việc mới như không gian mạng, môi trường số.

Việc tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên là yêu cầu vừa cấp thiết vừa có ý nghĩa chiến lược trong việc xây dựng và hoàn thiện nhân cách, phẩm chất văn hóa của con người Việt Nam trong thời đại mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng đã đặt ra yêu cầu các cơ quan chức năng “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần Đảng ta là đạo đức, là văn minh cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”(1).

Dưới góc độ nghiên cứu, các chuẩn mực đạo đức cách mạng của người đảng viên đối với công việc cần được chuẩn hóa theo các nhóm sau đây:

Thứ nhất, nhóm chuẩn mực đạo đức về hệ tư tưởng, ý thức chính trị gồm các yếu tố làm nên tiêu chuẩn chính trị của người cán bộ đảng viên như lòng trung thành, sự tin tưởng, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của bản thân; nghiêm chỉnh chấp hành, tuân thủ mọi chủ trương, đường lối của Đảng, kỷ luật đảng; không suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống; không có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, luôn có ý chí, khát vọng cống hiến vì sự phát triển của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.

Thứ hai, nhóm chuẩn mực đạo đức về pháp luật là các tiêu chí thể hiện sự tuân thủ, thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị nơi công tác; giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, giữ nghiêm kỷ luật, bảo đảm cho một xã hội luôn được vận hành một cách trật tự, có kỷ luật, kỷ cương.

Thứ ba, nhóm chuẩn mực đạo đức về quan hệ xã hội là các tiêu chí về mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với cấp trên, cấp dưới và đồng nghiệp, với nhân dân, với đối tác trong thực thi nhiệm vụ được giao. Trong đó, cần chú trọng đến các giá trị như sự trung thực, sự tận tụy, tận tâm, tinh thần đoàn kết, tương trợ nhau trong công việc. Đặc biệt là trong sự tương tác, giải quyết công việc liên quan đến nhân dân, người cán bộ, đảng viên phải có các phẩm chất đạo đức: tôn trọng nhân dân, tin dân, gần dân và học dân.

Thứ tư, nhóm chuẩn mực đạo đức về khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Hiện nay, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang phát triển mạnh mẽ, việc ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ được thực hiện ở hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề, đòi hỏi người cán bộ, đảng viên cũng cần có những tiêu chuẩn, tiêu chí về đạo đức cách mạng như sử dụng đúng mục đích, sử dụng tiết kiệm và bảo quản tốt tài sản các phương tiện cơ sở, vật chất, trang thiết bị; giữ gìn bí mật quốc gia, tích cực tham gia phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng.

Thứ năm, nhóm chuẩn mực đạo đức trong quan hệ quốc tế. Đất nước ta đang chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng nhằm tận dụng thời cơ, nguồn lực từ quốc tế phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cán bộ, đảng viên khi thực hiện nhiệm vụ ngoại giao, quan hệ quốc tế cũng cần phải có những tiêu chuẩn phẩm chất, đạo đức như tinh thần hòa hiếu, lòng vị tha, ứng xử văn hóa, có trách nhiệm, ham học hỏi, cầu tiến bộ.


Đồng chí Võ Văn Thưởng và các đại biểu tham quan triển lãm ảnh và sách “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ngày 22/5/2022.

Song song với các nhóm chuẩn mực nêu trên, cần đẩy mạnh giáo dục đạo đức và quy định chế độ học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên.

Với tư cách là bộ phận ưu tú của dân tộc, thành viên của đội tiên phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, cán bộ, đảng viên ở bất cứ vị trí công tác nào cũng đều phải tiên phong gương mẫu trong rèn luyện, tu dưỡng, thực hành đúng đắn các chuẩn mực đạo đức cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Mỗi cán bộ, đảng viên cần xác định tâm thế rèn luyện đạo đức cách mạng thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi, gắn với thực tiễn công việc của bản thân để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Bên cạnh sự tự giác của cá nhân, các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị cũng cần tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng để cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi, ứng xử trong công việc hàng ngày, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách, không bị cám dỗ bởi tiền tài, vật chất, danh vọng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội. Đồng thời, cần quy định chế độ học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên thông qua thực hành công việc, thực hiện chức trách, nhiệm vụ.

Sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời gian tới bên cạnh những thuận lợi, thời cơ cũng có không ít khó khăn, thách thức, nguy cơ, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ có tri thức, năng lực mà còn phải có lòng nhiệt tình cách mạng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có khát vọng cống hiến, phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; không tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; chống chủ nghĩa cá nhân; trọng dân, tin dân, học dân, vì nhân dân, tất cả vì sự phát triển đất nước phồn vinh, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Đó là những biểu hiện của chuẩn mực đạo đức cao đẹp mà mỗi cán bộ, đảng viên phải hướng tới để hoàn thiện nhân cách, phẩm chất của mình, để hoàn thành nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó./.
Chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên đối với công việc được hiểu là những quy định về tiêu chuẩn, nguyên tắc, thước đo hành vi chuẩn mực mà mỗi cán bộ, đảng viên khi thực thi nhiệm vụ đều phải có và tuân thủ. Trong từng giai đoạn, từng công việc khác nhau, các chuẩn mực đạo đức không chỉ được cán bộ, đảng viên thường xuyên rèn luyện thực hành, trau dồi, đồng thời bổ sung, phát triển những chuẩn mực đó lên tầm cao mới cho phù hợp với thời đại, với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Chuẩn mực đạo đức cách mạng được thể hiện bằng các chuẩn giá trị như lòng trung thành, tính trung thực, tận tụy, trách nhiệm, chấp hành kỷ luật, kỷ cương, quy định của pháp luật; luôn có tinh thần đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dấn thân vì sự nghiệp chung, vì thế nó được coi là những căn cứ để đánh giá phẩm chất, nhân cách, thái độ, hành vi của cán bộ, đảng viên, đồng thời là điều kiện để cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao./.
Trung tướng, PGS.TS. Trần Vi Dân, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Cục trưởng Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử, Bộ Công an.

Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo Trung ương

 

Trong giờ phút thiêng liêng được kết nạp vào Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều thề trước cờ Đảng và hình ảnh lãnh tụ, suốt đời đấu tranh phấn đấu theo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tuyệt đối trung thành và nghiêm chỉnh thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng, giữ gìn kỷ luật Đảng và phẩm chất, đạo đức của người cách mạng. Đó là lời thề danh dự định hướng rèn luyện, hành động của mỗi đảng viên, cán bộ.

Suốt các thời kỳ đấu tranh cách mạng, tuyệt đại đa số đảng viên, cán bộ đã thực hiện trọn vẹn lời thề đó, điều này có ý nghĩa quyết định sức chiến đấu, danh dự và uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Sự phấn đấu, hy sinh của các đồng chí lãnh đạo Đảng, của hàng nghìn, hàng vạn cán bộ, đảng viên đã cổ vũ, đoàn kết toàn dân tộc: giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của lịch sử dân tộc; đi tới toàn thắng trong các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc vì hòa bình, độc lập hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc; thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII khẳng định: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".

"Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng".

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có những thành công căn bản và quan trọng, bảo đảm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Song công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nhất là một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

"Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc".

Đảng đã thẳng thắn chỉ rõ 27 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" tại Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10/2016). Biểu hiện hàng đầu của sự suy thoái đó là: "Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh".

Không chỉ phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin, mà một bộ phận cán bộ, đảng viên còn có biểu hiện "Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái" và những biểu hiện sai trái khác. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: "Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị là căn bản và có ý nghĩa quyết định bảo đảm bản chất cách mạng, sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng là điều nguy hiểm nhất với sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Vì vậy, phải đấu tranh chống các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh đó càng đòi hỏi sự trong sạch trong nội bộ Đảng, phải ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.

Cách mạng và dân tộc Việt Nam từ năm 1930 đến nay do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã và đang phát triển trên con đường đúng đắn với những thắng lợi và thành tựu to lớn. Vì sao với hiện thực rõ ràng như vậy vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động, giảm sút niềm tin vào lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội? Cần thiết phải làm rõ nguyên nhân.

Có những người bị chi phối bởi quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho rằng sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm dẫn tới sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự thật là, đó là sự tan vỡ của một mô hình với những hạn chế và khuyết điểm hoàn toàn có thể điều chỉnh, sửa chữa được.

Chính sự phản bội và nhân danh tư duy chính trị mới đã phủ nhận thành quả vĩ đại của chủ nghĩa xã hội, đưa các nước đó rời bỏ con đường xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã sửa chữa những khuyết điểm của mô hình cũ bằng đường lối đổi mới. Kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội và đổi mới thành công đã làm cho nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.

Các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đã tổng kết điều đó. Đặc biệt, tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam công bố năm 2021 là sự phát triển quan trọng nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cần phải quán triệt và nhận thức sâu sắc những tổng kết có giá trị khoa học và hiện thực của Đảng trong từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đó là điều có vai trò quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị và phai nhạt lý tưởng cách mạng.

Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận, tư tưởng đó quyết định bản chất cách mạng, khoa học, bản lĩnh chính trị, sức chiến đấu của Đảng và cũng quyết định ý chí, lý tưởng cách mạng và phẩm chất chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên. Đảng nhiều lần nhấn mạnh, học tập, nghiên cứu nền tảng tư tưởng của Đảng không phải là thuộc lòng câu chữ mà phải nắm vững giá trị mang tính quy luật, phương pháp luận khoa học để vận dụng sáng tạo và không ngừng phát triển.

Bộ Chính trị khóa XII chủ trương tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phê phán, bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Qua cuộc đấu tranh đó để toàn Đảng và nhân dân cảnh giác và góp phần nâng cao nhận thức về tư tưởng, lý luận, tăng sức đề kháng trong Đảng và toàn xã hội. Những người phai nhạt lý tưởng, dao động, giảm sút niềm tin, hoặc bị ảnh hưởng từ những luận điệu sai trái, thù địch, cố tình phụ họa, tiếp tay cho kẻ địch, hoặc do trình độ nhận thức hạn chế, bản lĩnh chính trị không vững vàng, ít chịu học tập, rèn luyện, tu dưỡng và cả sự chủ quan, kiêu ngạo, cố tình quay lưng lại với sự thật.

Vì vậy phải chú trọng công tác giáo dục, học tập, nghiên cứu lý luận chính trị một cách căn bản, sâu sắc, có hệ thống. Giáo dục sâu sắc, thiết thực lý luận chính trị có ý nghĩa rất quan trọng củng cố sức mạnh của Đảng về tư tưởng, chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi sự phai nhạt lý tưởng cách mạng.

Phòng ngừa sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào cũng cần phải tu dưỡng, rèn luyện tính tiên phong, đức hy sinh và phẩm chất đạo đức cách mạng. Hiểu biết sâu sắc đất nước, dân tộc mình, tự hào, tự tôn dân tộc, tự hào về truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc và không ngừng học tập. Học tập để nâng cao trình độ trí tuệ, hiểu biết lý luận, nhận thức đúng đắn quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để hành động tự giác, có hiệu quả.

Lý tưởng, mục tiêu của Đảng rất rõ ràng là độc lập dân tộc và xây dựng Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. Là cán bộ, đảng viên của Đảng phải tuyệt đối trung thành và phấn đấu vì lý tưởng cao cả đó. Làm sao để trong Đảng không có những đảng viên phai nhạt lý tưởng, càng không thể có đảng viên xa rời tôn chỉ mục đích của Đảng. Hãy luôn luôn ghi nhớ lời thề khi gia nhập Đảng./.

Nguồn: ĐẦU SÓNG NGỌN GIÓ

 

Mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của các thế lực thù địch là chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiêu bài thâm độc, nham hiểm, gây mất đoàn kết, chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Điên cuồng nhất là những tên phản động người Việt lưu vong, còn mang hận thù cá nhân, tiếc nuối chế độ Việt Nam cộng hòa đã sụp đổ, hòng ôm mộng ảo tưởng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hồng Dân chính là kẻ như thế, trên “Vietnamthoibao”, đã đăng tải bài viết: Thử phản biện về “chính trị nhất nguyên”, Y đã lấy Singapore làm hình mẫu, ca ngợi thể chế chính trị dân chủ, đa đảng của đất nước này để so sánh, phê phán Việt Nam là “bảo thủ”, “độc tài, toàn trị” … Thực chất đây là những thủ đoạn dọn đường cho sự hình thành tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hòng vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dù có “trăm phương nghìn kế”, các thế lực thù địch cũng không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên về niềm tin của nhân dân ta đồng lòng đi theo Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với những thành tựu to lớn đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và lịch sử.

Trước tiên, cần phải khẳng định rằng: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là cần thiết, tất yếu, khách quan, là chính danh, hợp hiến và hợp pháp. Được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ, đồng thuận được quy định trong Hiến pháp, trong Cương lĩnh và trong Điều lệ Đảng. Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Thứ hai, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định trong thực tế cách mạng và được nhân dân thừa nhận. Việt Nam từng có thời kỳ đa đảng: Năm 1946, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại hai đảng đối lập là Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh Hội. Hai đảng này đã bám gót ngoại bang, nên không được nhân dân chấp nhận. Có thời kỳ, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944-1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (1946-1988), hai đảng này cũng không được đa số nhân dân giao cho sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng và tự giải tán.

Thứ ba, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế kiểm nghiệm, nhất là vào những bước ngoặt của lịch sử. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thắng lợi: Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Thứ tư, Nhân dân Việt Nam đã thừa nhận và ủy quyền Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Ngay từ khi ra đời Đảng luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, được Nhân dân thương yêu, đùm bọc, che chở và xây dựng. Hơn 93 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận rõ hơn ai hết, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có một lực lượng, một tổ chức nào có thể đại diện chân chính cho lợi ích của mình. Vì thế, nhân dân tin tưởng trao quyền lãnh đạo cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ năm, ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước và xã hội. Để xứng đáng với sự tin cậy của Nhân dân, Đảng đã đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong, vai trò của Đảng cầm quyền và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.

Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hiển nhiên, là sự lựa chọn và giao phó của lịch sử, của nhân dân và dân tộc Việt Nam, Đảng không tranh giành vai trò lãnh đạo với bất kỳ đảng phái nào. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà Nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng 93 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai trái của Hồng Dân cũng như các thế lực thù địch, phản động và chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Đó là sự thật không thể phủ nhận./.

Nhân văn Việt

 Việt Nam kiên định giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế; ủng hộ việc các nước cùng nhau hợp tác giải quyết bất đồng trong vấn đề Biển Đông.



Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng trả lời câu hỏi của phóng viên. (Ảnh: Phương Uyên/TTXVN phát)

Chiều 6/4, tại họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết bình luận của Việt Nam về thông tin tàu Hải Dương Địa chất 4 của Trung Quốc thời gian qua có hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Bộ Ngoại giao khi đó đã đưa ra bình luận về thông tin này, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nhấn mạnh:

"Việt Nam khẳng định quan điểm nhất quán các hoạt động ở khu vực Biển Đông cần tuân thủ nghiêm túc luật pháp quốc tế, tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982."

Theo Phó Phát ngôn Phạm Thu Hằng, các lực lượng thực thi pháp luật trên biển của Việt Nam cho biết tàu Hải Dương Địa chất 4 đã rời khỏi vùng biển của Việt Nam.

Về thông tin Tổ chức Khoa học Tự nhiên Trung Quốc (NSFC) công bố danh sách 33 khu vực “khảo sát thường xuyên," trong đó có một số tuyến tại Biển Đông bao trùm lên quần đảo Trường Sa và vùng biển của Việt Nam, Phó Phát ngôn Phạm Thu Hằng nêu rõ: "Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế, cũng như quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982."

Bà Phạm Thu Hằng cho rằng việc khảo sát, nghiên cứu khoa học trong phạm vi quần đảo Trường Sa và vùng biển của Việt Nam được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 mà không được sự cho phép của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng biển của mình, do đó không có giá trị.

Trước thông tin, ngày 4/4, báo China Daily của Trung Quốc đăng một cuộc phỏng vấn với Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim đang có chuyến thăm nước này. Trong cuộc phỏng vấn, ông Anwar Ibrahim kêu gọi đối thoại để giải quyết tranh chấp trên Biển Đông và cho rằng đây không phải là vấn đề "không thể vượt qua," Phó Phát ngôn Phạm Thu Hằng nêu quan điểm của Việt Nam về phát ngôn trên và việc giải quyết khác biệt trên Biển Đông.

Bà Phạm Thu Hằng nêu rõ: Là quốc gia kiên định giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, Việt Nam ủng hộ việc các nước có thể cùng nhau hợp tác giải quyết bất đồng trong vấn đề Biển Đông, trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các nước, được xác định bởi Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982); đóng góp tích cực, thiết thực vào việc duy trì hòa bình, ổn định trật tự pháp lý trên biển, an toàn, tự do hàng hải và hàng không, thúc đẩy phát triển bền vững biển và đại dương.

"Với chủ trương trên, Việt Nam luôn sẵn sàng cùng các quốc gia liên quan đàm phán, giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ do lịch sử để lại, đóng góp tích cực vào quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và các nước, cũng như đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế giới," Phó Phát ngôn Phạm Thu Hằng khẳng định./.

Thu Phương - Nguồn: TTXVN/Vietnamplus

 Một nhân viên thu nợ tiết lộ với tờ New York Times, các con nợ thường xin kéo dài thời hạn, van nài rằng việc quấy rối liên tục thế này sẽ dẫn tới cái chết của họ. Tuy nhiên, các nhân viên thu nợ vì tiền thưởng nên vẫn sẽ tiếp tục.

Dele Awosanya (tên nạn nhân đã được thay đổi), một kiến trúc sư, sợ hãi nhìn xung quanh như thể đang bị ai đó theo dõi. Mặc dù hôm đó thời tiết khá lạnh nhưng cơ thể anh lại tứa mồ hôi đầm đìa.

“Tôi hiện đang khánh kiệt và phá sản. Những ứng dụng cho vay đang ám ảnh cuộc đời tôi. Tin nhắn và những lời đe dọa đang khiến tôi coi cái chết như một cánh cổng để thoát khỏi sự tủi nhục này… Bây giờ tôi chỉ có thể hy vọng vào Chúa” – Awosanya nói với phóng viên Victor Ayeni của Nhật báo Punch (Nigeria), giọng chứa đầy sự tuyệt vọng.

Awosanya chỉ là một trong số hàng nghìn người Nigeria đã vay tiền từ các app cho vay nặng lãi trực tuyến, sau đó vỡ nợ. Giờ đây anh trở thành mục tiêu săn lùng của các chủ nợ, bị đe dọa, quấy rối, hủy hoại nhân tính và thậm chí cướp đi ý chí sống.

G. Chandra-Mohan, một người đàn ông 38 tuổi tại Ấn Độ, đã vay khoảng 1.000 USD từ ứng dụng vay tiền online. Tuy nhiên, sau một thời gian, số tiền nợ đã tăng lên gấp 5 lần do lãi, phí phát sinh và tiền phạt trễ hạn.

Với mức lương 200 USD/tháng, Chandra-Mohan không thể chi trả nổi. Anh rút hết hạn mức trong thẻ tín dụng và vay tiền từ hàng chục ứng dụng cho vay khác để ứng phó. Khi Chandra-Mohan báo với cảnh sát về những cuộc gọi quấy rối từ nhân viên thu hồi nợ, họ bảo anh ta tắt điện thoại trong vài ngày và quay lại nếu tình trạng vẫn tiếp diễn.

Một buổi sáng, sau khi lái xe máy chở vợ đến văn phòng, Chandra-Mohan đưa cho 3 cô con gái nhỏ một ít tiền lẻ và gửi chúng sang ông bà. Tiếp đó, anh trở về nhà và quyết định kết liễu cuộc đời mình. Thế nhưng, ngay cả sau khi Chandra-Mohan tự sát, những cuộc gọi đòi nợ vẫn tiếp tục tìm đến…

Theo Punch, trong những năm gần đây, các công ty cho vay trực tuyến đã trở thành một nguồn cung hấp dẫn đối với nhiều cá nhân và chủ doanh nghiệp khi cho phép nhận các khoản vay nhanh chóng, dễ dàng. Không khó để tìm thấy ứng dụng cho vay trực tuyến trên cửa hàng Google Play. Tại Nigeria, các ứng dụng này thường yêu cầu người dùng cung cấp Số xác minh ngân hàng (Bank Verification Number) và số điện thoại liên kết với nó.

Đối với các trường hợp ở Ấn Độ, ứng dụng vay tiền online còn yêu cầu quyền truy cập vào điện thoại của người vay, danh bạ, ảnh, tin nhắn văn bản, thậm chí nắm được cả phần trăm pin trên máy điện thoại của họ. Trong năm ngoái, các cơ quan chức năng của Ấn Độ đã phải phát đi cảnh báo đỏ về hàng loạt trường hợp trở thành nạn nhân của các ứng dụng vay tiền online.

Theo tờ New York Times, hạn hoàn trả các khoản vay online có thể rất ngắn, ví dụ như chỉ trong 1 tuần. Chủ nợ thường tính thêm lãi và phí (lên tới 1/3 khoản vay) trước khi tiền được chuyển đến tay người vay. Do đó, ngay từ ban đầu, những người đi vay đã nợ nhiều hơn số tiền mà họ nhận được.

Một số công ty cho vay còn có cả tổng đài, nơi các nhân viên thu nợ sẽ tiến hành chiến thuật đòi nợ qua điện thoại/mạng xã hội.

Đầu tiên, họ sẽ thực hiện các cuộc điện thoại quấy rối, thúc giục con nợ phải trả đủ tiền gốc, tiền lãi và phí phát sinh. Nếu các con nợ không trả hoặc không trả đủ, cuộc gọi sẽ chuyển hướng sang bạn bè và gia đình của họ, trong đó nhân viên thu nợ đôi khi còn cung cấp thông tin giả rằng người vay đang bị cảnh sát truy nã.

Một số đã lập nhóm chat trên WhatsApp, thêm thành viên từ danh sách liên hệ của người vay, sau đó gửi vào nhóm này những lời buộc tội nạn nhân. Một số khác sẽ tìm cách hướng những con nợ đang tuyệt vọng chuyển sang các dịch vụ cho vay tiền khác, khiến nạn nhân càng rơi sâu hơn vào bẫy.

Trong cuộc phỏng vấn với New York Times, một thanh niên 24 tuổi từng là nhân viên thu nợ cho biết anh ta kiếm được khoảng 130 USD/tháng với công việc này. Mỗi ngày, anh sẽ nhận được các tệp thông tin của khoảng 50 người vay, bao gồm thông tin cá nhân, bản sao căn cước và danh sách liên hệ của họ.

Các nhân viên thu nợ có thể kiếm được khoản tiền thưởng 7 USD hàng tuần nếu gây được áp lực buộc 3/4 con nợ phải trả lại các khoản vay. Tiền thưởng sẽ tăng gấp đôi nếu tỷ lệ thành công là 4/5 hoặc cao hơn. Cũng theo người này, các con nợ thường xin kéo dài thời hạn, van nài rằng việc quấy rối liên tục thế này sẽ dẫn tới cái chết của họ. Tuy nhiên, các nhân viên thu nợ vì tiền thưởng nên vẫn sẽ tiếp tục.

Trong khi đó, trả lời tờ Punch, bà Sola Erabor – người từng làm nhân viên thu nợ bán thời gian cho một số công ty cho vay như Easy Naira, Happy Loan và Fast Naira cho biết, các nhân viên thu nợ được đào tạo để sử dụng những lời đe dọa, quấy rối nhằm thu hồi các khoản vay.

“Thường sẽ có chỉ tiêu, nếu tới cuối tháng mà không đòi được khoản nợ nào thì sẽ bị trừ lương. Nhưng nếu thành công, nhân viên thu hồi nợ sẽ nhận được một khoản hoa hồng đáng kể. Vì vậy, họ phải làm bất cứ điều gì để đòi được tiền từ người vay, ngay cả khi phải lăng mạ, đe dọa…” – Bà Erabor cho hay.

Các nhân viên thu nợ sẽ phân loại người vay thành 4 loại, từ Q 0 đến Q 4. Những người có khoản vay chưa đến hạn rơi vào Q 0, nhân viên thu nợ sẽ gọi điện, khuyến khích họ trả tiền và hứa hẹn những lợi ích “hão” nếu họ thanh toán trước hạn.

G. Chandra-Mohan, cha của ba đứa trẻ, đã kết liễu cuộc đời mình sau khi không trả nổi các khoản nợ, lãi và phí phát sinh. Nguồn: NYT

Vào ngày đến hạn mà chưa trả nợ, những người Q 0 sẽ trở thành Q 1. Q 2 và Q 3 là những người có khoản vay đã trễ hạn trả vài ngày cho tới 1 tuần. Q 4 là những người đã trễ hạn trả từ 30 ngày trở lên. Họ sẽ nhận được những cuộc gọi quấy rối đòi nợ với giọng điệu gay gắt hơn. Đây cũng là lúc nhân viên thu nợ tìm tới liên hệ của người thân/bạn bè con nợ.

Tác động tâm lý từ các cuộc gọi/tin nhắn đe dọa là rất lớn. Thứ nhất, chúng gây căng thẳng về mặt tinh thần cho người đi vay. Thứ hai, chúng sẽ kích hoạt cơ chế gây hấn. Nhiều người phản ứng với các mối đe dọa bằng cách gây hấn, bởi đó là một trong những cơ chế đối phó của não bộ. Đối với họ, điều quan trọng nhất khi ấy là lòng tự trọng vẫn còn nguyên vẹn.

 Câu chuyện về nhà vệ sinh công cộng ở Việt Nam đã không còn gì xa lạ đối với cả khách du lịch trong nước và nước ngoài khi tình trạng thiếu hụt vẫn đang là chủ đề đáng quan ngại, đặc biệt là với Thành phố Hồ Chí Minh. Theo các báo cáo gần đây, mặc dù có hơn 10 triệu dân, tuy nhiên thành phố đông dân nhất Việt Nam chỉ có hơn 250 nhà vệ sinh công cộng.

Theo Vietnam Insider đánh giá, đường phố của Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp mọi thứ mà khách du lịch muốn: thức ăn ngon, lịch sử khắc sâu vào kiến ​​trúc, cuộc sống địa phương của những người lái xe máy, uống nước vỉa hè, …. Tất cả mọi thứ, ngoại trừ nhà vệ sinh.

Theo thống kê về chỉ số nhà vệ sinh công cộng trên mỗi km2 tại 69 thành phố du lịch trên toàn cầu của QS Supplies – một trong những nhà bán buôn và bán lẻ phòng tắm độc lập lớn nhất ở Vương quốc Anh, được báo Nikkei Asia hôm 21/1/2023 trích dẫn, thì Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nằm cuối bảng xếp hạng về số nhà vệ sinh công cộng tính trên mỗi km2.

Cụ thể theo báo cáo, tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh con số này là 0,01; trong khi đó tại Bangkok là 0,13; Paris là 6,72 và Los Angeles là 0,11… Còn Thủ đô và thành phố lớn nhất Việt Nam nằm chót bảng trong nhóm 15 thành phố tệ nhất về số nhà vệ sinh công cộng; chỉ trên Johannesburg của Nam Phi và Cairo của Ai Cập.

Nikkei Asia cho rằng, có một sự thật không thể chối cãi là du khách, sau khi uống cà phê kem trứng và tản bộ trên vỉa hè lát đá của Hà Nội trong một giờ, sẽ phát hiện khó kiếm ra nhà vệ sinh công cộng ở xung quanh. Các tờ rơi hướng dẫn du khách nhắc nhở họ mang theo tiền hoặc lưu các số điện thoại khẩn cấp, nhưng lại không chuẩn bị cho mọi người việc cơ bản nhất này. Trong một nghiên cứu đã mô tả “Việc sử dụng nhà vệ sinh không chỉ là nhu cầu và quyền. Đây còn là vấn đề về nhân phẩm, hòa nhập và tôn trọng”.

Đó cũng là vấn đề kinh tế xã hội. 10 nơi dẫn đầu về mật độ nhà vệ sinh công cộng cao trên km vuông hầu hết là các thành phố giàu có và phát triển, chẳng hạn Paris, Zurich, Barcelona…; trong khi nhóm thành phố dưới cùng chủ yếu ở châu Phi hoặc châu Á thuộc các nước đang phát triển.

Ở nhiều nước trên thế giới, nhà vệ sinh trở thành công bằng xã hội, như Mỹ, nơi có những cuộc tranh luận về việc liệu các cửa hàng như Starbucks có nên cho phép những người không phải là khách hàng được sử dụng cơ sở vật chất hay không…

Theo một báo cáo mới đây, TP.HCM hiện có hơn 10 triệu dân nhưng chỉ có hơn 250 nhà vệ sinh công cộng, chủ yếu tập trung ở các khu vực trung tâm thành phố như: Q1, Q3, Q5. Nhà vệ sinh công cộng tại TP.HCM không chỉ thiếu mà còn bị người dân phàn nàn là khó sử dụng, xuống cấp và không sạch sẽ.

Trong bối cảnh đó, sáng ngày 19-3, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Nên, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM Bùi Xuân Cường cùng đoàn công tác có buổi làm việc với quận 1 về vấn đề chỉnh trang đô thị, vệ sinh môi trường trên địa bàn quận.

Theo Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Neng, kế hoạch sẽ được triển khai theo từng giai đoạn, với mục tiêu cụ thể là quận 1 phải làm đẹp, mở lại nhà vệ sinh xuống cấp và lắp mới nhà vệ sinh di động. Ngoài ra, các doanh nghiệp và tổ chức địa phương cũng được yêu cầu cho phép người dân sử dụng nhà vệ sinh miễn phí.

Ông nhấn mạnh rằng nhà vệ sinh công cộng phải tạo ấn tượng tốt với người dân địa phương và khách du lịch và chúng phù hợp với người khuyết tật.

Mới đây, 100 quán cà phê, nhà hàng ở quận 1 đã cung cấp nhà vệ sinh miễn phí cho người dân.

Để phục vụ người dân và du khách, Quận 1 trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều giải pháp để tăng nhanh số lượng nhà vệ sinh có thể sử dụng. Trong đó có vận động các cơ sở kinh doanh ăn uống, khách sạn hỗ trợ người dân, du khách sử dụng miễn phí nhà vệ sinh. Mới đây, 100 quán cà phê, nhà hàng ở quận 1 đã cung cấp nhà vệ sinh miễn phí cho người dân.

Lãnh đạo TP.HCM cũng cho biết đã đề nghị Chính phủ trình Quốc hội cho phép được quyền cấp tạm. Ngoài ra, yêu cầu họ không sử dụng nhà vệ sinh công cộng để đạt được thành tích và bảng xếp hạng. Từ nay đến hết tháng 4/2023, thành phố muốn tạo sự chuyển biến về vấn đề này.

Theo các chuyên gia, để giải quyết những vấn đề này, trước tiên chúng ta phải thay đổi thái độ về tầm quan trọng của nhà vệ sinh công cộng. Ngoài ra, tại một hội nghị mới đây, các quan chức thành phố cũng cho rằng, theo tiêu chí “Thành phố văn minh, hiện đại, nghĩa tình”, nơi công cộng cần được đáp ứng những nhu cầu thiết yếu, quan trọng thì cần được quan tâm đầu tư, quản lý đúng mức.

“TP.HCM phải xem việc này quan trọng, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân và du khách. TP.HCM không làm nhà vệ sinh công cộng với mục đích để lấy thành tích, xếp thứ hạng. Tinh thần là mỗi ngày một tốt hơn, tuyệt đối không được xấu hơn”. Bí thư Nguyễn Văn Nên nhấn mạnh.

Tuệ Ngô

 Đoàn Luật sư TP.HCM tạm đình chỉ tư cách hành nghề luật sư của bà Đặng Thị Hàn Ni (SN 1977, ngụ quận 7, TP.HCM).

Nhà báo Hàn Ni khi bị đọc lệnh bắt giữ

Ngày 26/3, luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP.HCM cho biết, tổ chức này đã họp và quyết định tạm đình chỉ tư cách hành nghề luật sư của Đặng Thị Hàn Ni (SN 1977, ngụ quận 7, TP.HCM).

Theo ông Hậu, bà Đặng Thị Hàn Ni đang bị khởi tố nên Đoàn Luật sư TP.HCM đã tạm đình chỉ tư cách hành nghề luật sư. Nếu trường hợp bị tòa án kết án thì bà Ni sẽ bị các cơ quan có thẩm quyền thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư, xóa tên khỏi danh sách luật sư.

Cũng theo ông Hậu, trước đây Đoàn Luật sư TP.HCM đã tiếp nhận thông tin bà Đặng Thị Hàn Ni có dấu hiệu vi phạm các Điều 17 và 18 của Luật Luật sư 2006.

Cụ thể, bà vừa là luật sư, vừa là nhà báo của một tờ báo tại TP.HCM. Đoàn luật sư đã gửi công văn cho cơ quan báo chí nơi bà công tác và Sở Nội vụ TP.HCM để yêu cầu xác minh bà có phải là viên chức hay không. Tuy nhiên, đoàn đã không nhận được phản hồi từ hai cơ quan này nên chưa có cơ sở để thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư của bà.

“Nếu Đoàn Luật sư TP.HCM nhận được xác nhận của các cơ quan chức năng có thẩm quyền bà Hàn Ni đang là viên chức thì chúng tôi sẽ xoá tư cách luật sư đối với Hàn Ni bởi vì bà đang vi phạm vi phạm luật Luật sư”, ông Hậu nói.

Trước đó vào ngày 24/2, Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thi hành lệnh bắt tạm giam bị can Đặng Thị Hàn Ni để điều tra về hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân theo Điều 331 Bộ luật Hình sự.

Theo Công an TP.HCM, trước đó, Phòng Cảnh sát Hình sự Công an TP.HCM đã tiếp nhận, thụ lý đơn tố giác của bà Nguyễn Phương Hằng và chồng là ông Huỳnh Uy Dũng về việc bị can Đặng Thị Hàn Ni đăng tải các đoạn video xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Hành vi này xâm phạm lợi ích hợp pháp của Công ty CP Đại Nam và Quỹ từ thiện Hằng Hữu.

Cơ quan công an xác định Đặng Thị Hàn Ni đã cố ý đăng tải nhiều video trên kênh Youtube với các nội dung chưa được kiểm chứng. Những thông tin này thuộc bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư. Các nội dung đăng tải trên đã thu hút hàng trăm nghìn lượt xem và bình luận, gây ảnh hưởng xấu đến ninh trật tự, gây hoang mang trong nhân dân, xâm phạm quyền cơ bản của công dân.

 Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un đã giám sát vụ thử nghiệm vũ khí giúp thực hiện cuộc tấn công hạt nhân chống lại Mỹ và các đồng minh.

Reuters và Bloomberg cho biết Triều Tiên đã thử nghiệm một thiết bị không người lái dưới nước có khả năng tạo ra “sóng thần phóng xạ”. Trong đó, thiết bị này đã ở dưới nước gần 60 giờ ở ngoài khơi bờ biển phía Đông Triều Tiên trước khi phát nổ.

“Nhiệm vụ của vũ khí chiến lược hạt nhân dưới nước là âm thầm xâm nhập vào lãnh hải mục tiêu và tạo ra một cơn sóng thần phóng xạ siêu quy mô thông qua vụ nổ dưới nước để tiêu diệt các nhóm hải quân và cảng chính của đối phương” – hãng tin nhà nước Triều Tiên KCNA tuyên bố.

Ngoài ra, từ ngày 21 đến ngày 23-3, Triều Tiên cũng bắn tên lửa hành trình gắn đầu đạn hạt nhân giả, theo KCNA.

Bình Nhưỡng được cho là sở hữu nhiều tàu ngầm cỡ nhỏ với công nghệ cũ, tương đối dễ bị phát hiện. Song song đó, nước này tìm cách phát triển tên lửa đạn đạo nhiên liệu rắn mới có thể triển khai nhanh chóng và cơ động cũng như thiết bị mới giúp mang đầu đạn.

Chủ tịch Kim Jong-un

Triều Tiên từng cảnh báo sẽ phản ứng mạnh trước các cuộc tập trận quân sự chung giữa Mỹ và Hàn Quốc, đồng thời đe dọa biến khu vực Thái Bình Dương thành “bãi tập bắn”.

Vụ thử nghiệm thiết bị không người lái dưới nước của Triều Tiên trùng với thời điểm kết thúc một trong những cuộc tập trận quân sự chung lớn nhất giữa Mỹ và Hàn Quốc nhiều năm qua. Washington lập luận rằng các cuộc tập trận như vậy là cần thiết để ứng phó với mối đe dọa hạt nhân từ Bình Nhưỡng.

Trong khi đó, ông Kim Jong-un nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì khả năng phòng thủ hạt nhân và sự cần thiết của việc phát triển chương trình vũ khí hạt nhân liên tục để “bảo vệ người dân và lãnh thổ khỏi các mối đe dọa, đặc biệt là từ Mỹ và Hàn Quốc”.

Đài CNN cho biết theo một nghiên cứu mới của các nhà khoa học Trung Quốc, một tên lửa của Triều Tiên có thể bay đến lãnh thổ Mỹ sau 33 phút nếu nó không bị chặn.

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.