Lợi dụng sự kiện kỷ niệm 64 năm Ngày truyền thống Bộ đội Biên phòng (03/3/1959 – 03/3/2023) và 34 năm Ngày Biên phòng toàn dân (03/3/1989 – 03/3/2023), các thế lực thù địch, phản động, bất mãn gia tăng các hoạt động chống phá, tăng tần suất đăng bài trên các trang mạng xã hội, trong đó bài viết “Bộ đội biên phòng” của Kim Văn Chính đăng trên Bureau CTM Media – Âu Châu là một ví dụ. Y cho rằng: “Biên giới là lãnh địa tiền” mà Biên phòng lợi dụng chống buôn lậu để “chia phần”, và rằng đa số tội phạm đã được “bắt tay, thương thảo”… (!)

Đây là những luận điệu phản động, phiến diện, thiếu khách quan, mục đích hướng dư luận có cách nhìn sai lệch về việc thực thi nhiệm vụ của lực lượng biên phòng, phủ nhận vai trò của Bộ đội Biên phòng trong quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia; xa hơn là nhằm bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, suy giảm sức chiến đấu của Quân đội.

Cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, dưới sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, sự cám dỗ của đồng tiền một số ít cán bộ biên phòng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm kỷ luật, pháp luật, gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước, quân đội. Những vụ việc vi phạm trên đều đã được xử lý theo quy định của pháp luật.

Thực tế, trong 3 năm phòng chống dịch Covid-19 (2019-2021), lực lượng Bộ đội Biên phòng đã thực hiện tốt nhiệm vụ kép vừa quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và đấu tranh phòng, chống tội phạm; vừa là lực lượng chủ công ngăn chặn dịch Covid-19 xâm nhập qua biên giới.

Báo cáo của Bộ đội Biên phòng, trong những năm qua, toàn lực lượng đã xác lập hơn 1.600 chuyên án, xây dựng trên 7.000 kế hoạch nghiệp vụ, bắt giữ và xử lý hơn 107.000 vụ với trên 167.000 đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia, mua bán người, tiền giả và các loại tội phạm khác, riêng đấu tranh với tội phạm về ma túy, Bộ đội Biên phòng đã bắt giữ trên 120.000 vụ với trên 200.000 đối tượng, thu hàng chục tấn heroin, cần sa, ma túy dạng đá, hàng trăm triệu viên ma túy tổng hợp, cùng nhiều vũ khí quân dụng, vật liệu nổ.

Riêng công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, lực lượng Bộ đội Biên phòng đã đấu tranh thành công nhiều chuyên án lớn. Ví dụ như trong dịp tết Nguyên đán năm 2023, các đơn vị Bộ đội Biên phòng đã tích cực, chủ động nắm chắc tình hình địa bàn, đối tượng, chủ trì, phối hợp phát hiện, bắt giữ 58 vụ/203 đối tượng có các hành vi vi phạm pháp luật; thu giữ tang vật gồm: 18,3 kg ma túy các loại, 254 kg pháo, 1.300 bao thuốc lá, 1,5 tấn đường, 46.050 USD… và các loại hàng hóa khác với tổng trị giá ước tính khoảng 1,1 tỷ đồng; Bộ đội Biên phòng tỉnh Long An phối hợp Cục Phòng, chống ma túy và tội phạm, tổ chức đấu tranh thành công 4 chuyên án, bắt giữ 5 đối tượng, thu giữ 2.617kg pháo nổ và 16.440 bao thuốc lá ngoại…

Cũng phải nói thêm rằng, hoạt động của các loại tội phạm hiện nay vô cùng phức tạp với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm, manh động, chúng sẵn sàng chống trả quyết liệt khi bị vây bắt…. trong điều kiện thời bình nhưng máu của cán bộ, chiến sĩ biên phòng vẫn đổ để giữ gìn sự yên bình, hạnh phúc cho nhân dân.

Chính những hy sinh, cống hiến của cán bộ, chiến sĩ biên phòng trên mọi miền biên cương, trong mọi nhiệm vụ đã nói lên ý chí quyết tâm bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới của Tổ quốc; đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù, bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Cho nên, những rêu rao cho rằng, “biên phòng lợi dụng chống buôn lậu để “chia phần”, “bắt tay, thương thảo” với tội phạm là những luận điệu hồ đồ, đánh đồng hiện tượng với bản chất, không phản ánh đúng sự thật cần phải lên án mạnh mẽ, đấu tranh, bác bỏ./.

Nhân văn Việt

 Trước khi COVID-19 xuất hiện đúng một thế kỷ, một trận “sóng thần” khác quét qua nhân loại. Theo Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC), các ước tính cho thấy khoảng 1/3 dân số thế giới thời điểm đó đã ngã bệnh.

Nó trở thành đại dịch nghiêm trọng nhất trong lịch sử nhân loại những thế kỷ gần đây, với khoảng 50 triệu người tử vong, tức chiếm khoảng 10% số ca bệnh. “Tử thần” 100 năm trước mang tên “cúm Tây Ban Nha . Tên của loại virus đó, có lẽ quá quen thuộc. H1N1. “con sóng thần” một thế kỷ truớc COVID-19.

Nếu bạn kỹ lưởng một chút, hay là người dân sống ở vùng có khí hậu lạnh, bạn sẽ tiêm vắc xin cúm hàng năm. Phổ biến nhất có lẽ là loại vác-xin tái tổ hợp “tứ giá ngừa 4 chủng “cúm mùa”, bao gồm 2 chủng cúm A là H1N1 và H3N2, cùng 2 chủng cúm B Cúm mùa có vẻ khá “nhẹ nhàng ở những nơi khi hậu ẩm như TP HCM, cùng lắm là “hành người bệnh ra bã” trong khoảng hơn 1 tuần nhưng ít ai tử vong.

Tuy nhiên, ở những nơi khí hậu lạnh, số người chết vì cúm hàng năm không nhỏ. Dữ liệu năm 2018-2021 của Mỹ được CDC công bố ghi nhận tới hơn 41.000 ca tử vong.

Đại dịch cúm Tây Ban Nha từng giết chết 50 triệu người.(Nguồn: GettyImages)

Đầu thế kỷ XX, cúm mùa là một phiên bản khác. Bách khoa toàn thư Britannica ghi chép: “Lần đầu tiền dường như bắt nguồn từ đầu tháng 3-1918, trong Thế chiến I. Mặc dù chưa chắc chắn virus khởi phát từ đầu nhưng nó đã nhanh chóng lây lan qua Tây Âu và đến tháng 7 cùng năm, nó tràn sang Ba Lan. Đợt cúm đầu tiên tương đối nhẹ. Nhưng trong suốt mùa hè, một loại bệnh nguy hiểm hơn đã được công nhận và dạng này xuất hiện đầy đủ vào tháng 8-1918. Triệu chứng viêm phối nặng lên nhanh chóng và người bệnh thường tử vong chỉ hai ngày sau những dấu hiệu đầu tiên của bệnh cúm”.

Tại Camp Devens, bang Massachusetts – Mỹ, chỉ 6 ngày sau khi trường hợp cúm đầu tiên được báo cáo, con số đã leo thang đến 6.674 trường hợp. Đợt đại dịch thứ ba xảy ra vào mùa đông năm sau (1919) và đến mùa xuân tiếp theo thi virus mới lui bước.

Căn bệnh này lây qua đường hô hấp, không có vắc-xin, thuốc điều trị đặc hiệu và khiến các hệ thống y tế dự phòng còn quá sơ khai so với ngày nay phải chao đảo. Nó diễn tiến khá giống với COVID-19 một thế kỷ sau đó. Dường như một biến chủng ít nghiêm trọng hơn đã xuất hiện, khiến những làn sóng ở Tây Ban Nha năm 1920 – năm thứ ba của đại dịch – nhẹ hơn hai đợt tàn khốc trước đó rất nhiều.

Đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 là một trong những đại dịch tồi tệ nhất trong lịch sử

Cho đến nay, “cúm Tây Ban Nha” vẫn nhuốm màu bí ẩn. “Mặc dù virus H1N1 1918 đã được tổng hợp và đánh giá nhưng các đặc tính khiến nó có sức tàn phá khủng khiếp như vậy vẫn chưa được hiểu rõ” – CDC viết. Và nhân loại có lẽ không ngờ, cái tên H1N1 một lần nữa tạo ra đại dịch vào thế kỷ XXI.

“Trong cùng thời điểm, Việt Nam phải đương đầu với 3 dịch H5N1, tiêu chảy cấp và giờ là cúm heo H1N1. Vì thế, phải đặt trong tình trạng báo động cấp 4, nghĩa là virus có khả năng lây nhiễm từ người sang người và có thể gây ra những ổ dịch lớn”. Bộ trưởng Bộ Y tế khi đó là ông Nguyễn Quốc Triệu nhận định như vậy tại cuộc họp của Ban Chỉ đạo về phòng chống dịch bệnh trên người (gọi tắt là Ban Chỉ đạo) sáng 28-4 tại Hà Nội.

Đến ngày 11-6-2009, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức công bố đại dịch cúm toàn cầu và nâng cấp báo động lên cấp 6, sau khi có hơn 1,6 triệu ca mắc và hơn 18.000 ca tử vong. Tuy nhiên, một nghiên cứu sau đó, phối hợp giữa WHO và CDC Mỹ, cho thấy số ca tử vong có thể lên đến 284.000 người. Nhiều người đã thiệt mạng mà chưa bao giờ được “đếm số”. Truy vết, cách ly bệnh nhân, đóng cửa trường học… là những gì đã diễn ra ở Việt Nam vào năm đại dịch đó, quang cảnh mà chúng ta vừa thấy trong đại dịch.

Theo CDC Mỹ, virus (H1N1)pdm09 gây ra cúm đại dịch 2009 rất khác với virus H1N1 đang lưu hành thời điểm đó. Rất ít người trẻ tuổi biểu hiện bất kỳ khả năng miễn dịch nào (như được phát hiện bằng phản ứng kháng thể) đối với dòng H1N1 đặc biệt này nhưng gần 1/3 số người trên 60 tuổi lại có kháng thể, có thể do đã tiếp xúc với các đồng H1N1 cũ hơn trước đó trong đời. Vì rất khác với virus H1N1 lưu hành, vắc-xin cúm theo mùa hầu như không bảo vệ chéo chống lại virus (H1N1)pdm09.

Đó là nguyên nhân chính khiến nó tạo thành đại dịch. Một chút may mắn cho nhân loại, cúm đại dịch A-H1N1 năm 2009 ít chết chóc hơn đại dịch cúm Tây Ban Nha 9 thập kỷ trước đó rất nhiều.

Bích Ngân

 Trong những năm qua, nhiều đối tượng trong nước có hành vi, hoạt động vi phạm pháp luật, làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu vật phẩm nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Tất cả những đối tượng này đều bị bắt giữ và xét xử theo đúng pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, dù đang chịu án phạt tù, những đối tượng này vẫn tiếp tục bị các thế lực thù địch lợi dụng biến thành công cụ để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam, điển hình như đối tượng Phạm Thị  Đoan Trang…



Trang là đối tượng thường xuyên cấu kết với các phần tử chống đối, phản động trong và ngoài nước; trực tiếp thành lập và tham gia điều hành nhiều hội, nhóm bất hợp pháp, như: nhóm “Du ca Sài Gòn”, “Tuổi trẻ làm đẹp quê hương” và lợi dụng danh nghĩa biểu diễn ca nhạc, bảo vệ môi trường để tụ tập, truyền bá các ca khúc thời Việt Nam cộng hòa, tập hợp một số đối tượng trong giới văn nghệ sĩ, trí thức trẻ để chống đối… sử dụng chiêu trò “phản biện xã hội” để thể hiện chính kiến trước những sự kiện chính trị – xã hội của đất nước, các vấn đề đang được xã hội quan tâm nhưng thực chất là lợi dụng để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, kích động, cổ súy các hành vi chống đối, biểu tình, vi phạm pháp luật nhằm chống Đảng, Nhà nước.

Cùng với đó, Trang còn lập và điều hành các trang mạng, như: “Luật khoa tạp chí”, “Phamdoantrang.com”, “The Vietnamese” và đã móc nối, nhận tài trợ từ các đối tượng phản động của VOICE (một tổ chức ngoại vi của tổ chức khủng bố Việt Tân), thành lập fanpage “Nhà xuất bản Tự do” viết, tán phát nhiều cuốn sách có nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, kích động chống đối, kêu gọi biểu tình, lật đổ chế độ. Phạm Thị Đoan Trang đã viết hàng trăm tài liệu nội dung xuyên tạc, phản động; thực hiện trên 50 lượt trả lời phỏng vấn các đài báo nước ngoài; hướng dẫn “kỹ năng”, cách thức đối phó với cơ quan An ninh… kích động lật đổ chế độ.

Này 14/12/2021, HĐXX sơ thẩm TAND TP Hà Nội đã tuyên phạt bị cáo Phạm Thị Đoan Trang 9 năm tù về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điều 88, khoản 1 Bộ luật Hình sự năm 1999. Ngày 25/8/2022, TAND Cấp cao tại Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vì có đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Thị Đoan Trang. Trên cơ sở xét hỏi công khai tại phiên phúc thẩm, căn cứ lời khai, tài liệu, kết quả giám định, Tòa phúc thẩm nhận định, đủ cơ sở để kết luận hành vi phạm tội của bị cáo. Qua đó, Tòa sơ thẩm tuyên án phạt 9 năm tù đối với bị cáo Phạm Thị Đoan Trang về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là đúng người, đúng tội, không oan, hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội.

Như vậy, ngay từ những ngày đầu, Trang đã bị một số đối tượng phản động móc nối, lôi kéo vào con đường tội lỗi. Với nhận thức và hoạt động chống phá mù quáng, Trang đã được các thế lực thù địch tài trợ, hậu thuẫn và cổ xúy, biến thành công cụ chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Cùng với tài trợ bằng vật chất, chúng còn cổ xúy Trang bằng cách trao tặng cái gọi là giải thưởng nhân quyền Homo Homini (năm 2017). Ngay sau khi đối tượng Phạm Thị Đoan Trang bị bắt, các tổ chức thù địch, chống đối ở nước ngoài mang danh nhân quyền, tự do đã lập tức giở lại các chiêu bài cũ, kêu gào, lên tiếng đòi trả tự do cho đối tượng này và tiếp tục trao tặng các “giải thưởng” cho Trang như giải thưởng tự do báo chí (năm 2022), sau đó là giải thưởng Phụ nữ dũng cảm quốc tế. Tất cả những việc làm đó nhằm biến Trang thành công cụ để chống phá Đảng, Nhà nước và chính Nhân dân mình.

Là người Việt Nam, mỗi chúng ta phải hết sức tỉnh táo, cảnh giác, không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, lôi kéo, biến thành công cụ chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam./.

SỰ THẬT - Nguồn: Đấu trường Dân chủ

 Suốt gần nửa tháng nay, thông tin các bệnh viện không còn đủ thuốc, thiếu trang thiết bị y tế phục vụ công tác khám chữa bệnh đã khiến rất nhiều người bệnh và thân nhân người bệnh lo lắng. Để nhanh chóng giải quyết những ách tắc, khó khăn cho các bệnh viện trong cả nước, công điện số 72/CĐ-TTg đã được Thủ tướng Phạm Minh Chính ký ngày 25/02/2023.

Thời điểm này, nếu ghé qua các khoa của bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức (TP.HCM), sẽ cảm nhận được sự lo âu, căng thẳng của bệnh nhân và người nhà bệnh nhân khi lịch mổ liên tục bị hoãn vì thiếu hóa chất, vật tư y tế; bệnh nhân phải cắn răng chịu đau chờ thuốc. Mọi nguồn lực đều tập trung cho các ca cấp cứu, hoặc các ca bệnh nguy kịch.

Chưa bao giờ, tình trạng khó khăn, thiếu thốn đủ thứ lại bủa vậy các bệnh viện trong cả nước nghiêm trọng như lúc này. Đây là hệ quả của các sai phạm có tính hệ thống trong công tác đấu thầu thuốc, sinh phẩm, trang thiết bị y tế đã xảy ra liên tiếp hai năm gần đây. Sự bất cập của các quy định đấu thầu, cũng như việc quy trách nhiệm không rõ ràng khiến các cơ sở khám chữa bệnh thà không làm còn hơn làm mà lại không rõ khi nào sẽ bị tuýt còi.

Tâm lý tiêu cực này chỉ có thể được khắc phục khi nhiều bài toán liên quan đến cơ chế được làm minh bạch. Để có thuốc men, sinh phẩm, trang thiết bị cho các cơ sở khám chữa bệnh, không chỉ mỗi một ngành Y tế phải vận động, mà đòi hỏi sự phối kết hợp của rất nhiều ngành khác, như Bộ Kế hoạch – Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công an. Chính vì vậy, Công điện lần này chỉ rõ trách nhiệm chính, và trách nhiệm hỗ trợ của từng bộ ngành, tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, kéo dài thời gian giải quyết vấn đề hay “treo” vấn đề cần giải quyết.

Sự quyết liệt của Công điện còn thể hiện rất rõ ở nội dung yêu cầu các cơ sở khám chữa bệnh “kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền về các khó khăn, vướng mắc trong mua sắm, đấu thầu, cung ứng thuốc, trang thiết bị y tế.”. Đây là một yêu cầu quan trọng vì thời gian qua, nhiều lãnh đạo bệnh viện chỉ thụ động chờ được hướng dẫn, mà không chủ động lập dự án đấu thầu, gặp khó không quyết liệt yêu cầu được hướng dẫn, hỗ trợ, vì sợ bị quy chụp trách nhiệm. Do thuốc men không được bổ sung, trang thiết bị không được sửa chữa kịp thời kéo dài, tất yếu dẫn đến khiến tình trạng thiếu thuốc, thiếu trang thiết bị y tế, càng ngày càng trở nên trầm trọng.

Lần này, Công điện yêu cầu nêu cao tinh thần hành động khẩn cấp, vướng mắc đến đâu, đưa giải pháp đến đấy, Không thể chậm trễ hơn được nữa, vì người dân đang phải chịu đựng đau đớn từng ngày, đặc biệt là bệnh nhân bị bệnh hiểm nghèo, bệnh nhân chuyển tuyến cần can thiệp bằng thuốc hoặc các biện pháp ngoại khoa khẩn cấp.

Còn hơn ba tuần nữa để chấm dứt tình trạng thiếu thuốc, thiếu trang thiết bị y tế ở các cơ sở khám chữa bệnh trong cả nước theo tinh thần Công điện 72/CĐ-TTg. Cuộc đua nước rút tìm đường vượt khó của các bệnh viện đã được khởi động. Tin rằng, lần này, với sự minh bạch về quyền và trách nhiệm của lãnh đạo bệnh viện, cùng sự chung tay quyết liệt của nhiều bộ ngành, công tác lập kế hoạch đấu thầu và đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế của các bệnh viện sẽ tiến hành suôn sẻ, kịp thời cứu lấy sức khỏe và tính mạng của người dân.


 Công tác cán bộ, nhất là nhân sự cấp cao trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quân đội luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của xã hội. Điều này cũng dễ hiểu bởi cán bộ là gốc của mọi công việc, quyết định sự thành bại của các chính sách. Đặc biệt với những vị trí trọng yếu trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước thì việc ai được bổ nhiệm sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai, vận mệnh của  đất nước, luôn nhận được sự theo dõi của cộng đồng.


Có lẽ vì thế mà sự kiện đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư được bầu làm Chủ nước đã được dư luân đặc biệt quan tâm. Tuyệt đại đa số nhân dân đều hoan nghênh sự lựa chọn đúng đắn của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội trong việc giới thiệu và thay mặt nhân dân bỏ phiếu bầu người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Đồng chí Võ Văn Thưởng là cán bộ cấp cao của Đảng được đào tạo bài bản, có năng lực, uy tín và kinh nghiệm công tác, đã kinh qua nhiều vị trí lãnh đạo quan trọng của Trung ương và địa phương. Lãnh đạo nhiều nước trên thế giới cũng đã gửi điện chúc mừng tới Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng. Đặc biệt, phát biểu sau Lễ Tuyên thệ nhậm chức của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã gây dấu ấn sâu đậm trong tâm trí người dân Việt Nam về một vị đứng đầu Nhà nước khiêm tốn, dung dị, tôn trọng nhân dân, “Tôi may mắn trưởng thành trong nghĩa Đảng, tình dân, được truyền cảm hứng từ bàn tay, khối óc, sự cần cù, chịu thương chịu khó và nỗ lực vươn lên của người dân ở cả 3 miền đất nước. Tôi luôn tâm niệm phải nỗ lực, cố gắng để làm nhiều hơn nữa những điều có ích, kiên trì theo đuổi những giá trị tốt đẹp” - Chủ tịch nước nói.

Thế nhưng, có một thực tế là mỗi khi Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta giành được thắng lợi hay gặt hái được thành quả hoăc vui mừng trước những thành công thì các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị lại hậm hực. Chúng ra sức xuyên tạc về quy trinh bầu Chủ tịch nước về thân thế, sự nghiệp, đời tư của đồng chí Võ Văn Thưởng. Chúng rêu rao rằng, “Đảng đã làm thay Nhà nước, làm thay Quốc hội”. Chúng đòi “phải để người dân trực tiếp bầu Chủ tịch nước”. Thậm chí bài phát biểu rất ấn tượng của đồng chí Chủ tịch nước trước Quốc hội đã được báo chí đăng tải công khai cũng bị chúng “mổ xẻ” và xuyên tạc.

Có lẽ chúng không biết hoặc cố tình không muốn biết về quy trình bầu Chủ tịch nước tại kỳ họp Quốc hội vừa qua theo đúng Hiến pháp năm 2013.

Điều 87  của Hiến pháp quy dịnh rõ “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội”. Tại phiên họp toàn thể vừa qua,  Quốc hội đã ghe   Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình bày tờ trình về việc bầu Chủ tịch nước nhiệm kỳ 2021-2026. Sau khi thảo luận tại Đoàn, Quốc hội nghe Trưởng Ban Công tác đại biểu Nguyễn Thị Thanh trình bày báo cáo tổng hợp ý kiến thảo luận ở Đoàn và kết quả phiếu xin ý kiến về nhân sự bầu chức vụ Chủ tịch nước.Tiếp đó, Quốc hội thông qua danh sách bầu Chủ tịch nước đối với  đồng chí Võ Văn Thưởng và biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu kín. Sau đó, Tổng Thư ký Quốc hội trình bày dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc bầu Chủ tịch nước. Quốc hội đã thảo luận, biểu quyết thông qua Nghị quyết bầu Chủ tịch nước đối với đồng chí Võ Văn Thưởng với kết quả 487/488 đại biểu Quốc hội (98,38%) tán thành.

Trước đó Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp và nhất trí giới thiệu đồng chí Võ Văn Thưởng để Quốc hội bầu Chủ tịch nước. Như vậy Đảng không làm thay Nhà nước, không làm thay Quốc hội. Trình tự  bầu Chủ tịch nước theo đúng quy định của Hiến pháp, không hề có việc “”vi hiến” như những lời bịa đặt, xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Thực ra âm mưu xuyên tạc công tác cán bộ của các thế lực thù địch không có gì mới. Trước đó, mỗi khi Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội thực hiện các thủ tục miễn nhiệm, bổ nhiệm đối với một số đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước theo quy định của pháp luật và Điều lệ Đảng, làn sóng tuyên truyền xuyên tạc lại rộ lên Chúng tung lên không gian mạng nhiều sản phẩm dưới các hình thức như bài viết, video, phỏng vấn trực tuyến, tọa đàm... với các nội dung xuyên tạc, cho rằng: Môi trường chính trị ở Việt Nam đang có biến động lớn bởi sự “độc tài”, “độc đoán” của chế độ “Đảng trị”...

Thế nhưng luận điệu xuyên tạc công tác cán bộ của các thế lực thù địch lần này lại ẩn chứa thêm nhiều nội dung nguy hiểm, pha trộn giữa thông tin giả và thông tin thật ròi suy diễn, cắt cúp theo chủ ý cá nhân để gây ra sự hoài nghi của công chúng.

Trước những sản phẩm truyền thông xấu độc nêu trên, đại đa số cán bộ, đảng viên, công dân của chúng ta do có nhận thức đúng đắn, lập trường chính trị tư tưởng vững vàng đều đã hiểu rõ đây là âm mưu, thủ đoạn chống phá đất nước của các đối tượng cơ hội, thù địch. Tuy nhiên, mọi người cũng cần tỉnh táo, cảnh giác để phân biệt được đúng, sai trước những  được gọi là “phân tích”, “nhận định”, “đánh giá”, “nhận diện”, “dự báo”...  về “môi trường chính trị ở Việt Nam”./.

Nguồn: Nhân Văn  Hà Nội

 Lợi dụng vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam, trong đó xuyên tạc vấn đề bình đẳng giới là âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động. Trong dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, các luận điệu này lại được dịp “bung nở” trên nhiều diễn đàn, mạng xã hội của các tổ chức, đối tượng chống phá.



Đằng sau luận điệu sai trái, xuyên tạc

Các thế lực thù địch, tổ chức phản động sống lưu vong ở nước ngoài, các hãng truyền thông định kiến với Việt Nam đã đăng, phát tán nhiều bài viết, hình ảnh, video cố tình xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về bình đẳng giới. Họ phủ nhận những nỗ lực, thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm bình đẳng giới, vu cáo Việt Nam không có bình đẳng giới, Việt Nam phân biệt đối xử với phụ nữ, quyền của phụ nữ Việt Nam “bị đối xử nghiêm trọng, bị bỏ rơi”. Họ rêu rao, dưới chế độ “đảng trị”, phụ nữ bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế và “Đảng chỉ đưa ra những con số mị dân, lừa bịp chị em”, cho rằng, bị phân biệt đối xử là “nỗi thống khổ của phụ nữ dưới chế độ đảng trị”! Đây là những luận điệu sai trái, xuyên tạc của những kẻ đội lốt dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam. 

Tung ra những luận điệu xảo trá như vậy, mục đích của các thế lực thù địch nhằm gây ra sự phân tâm, hoài nghi của nhân dân, trong đó có một bộ phận phụ nữ về các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề bình đẳng giới, công tác phụ nữ. Từ đó, họ cố gắng gieo rắc tâm lý mặc cảm, tự ti đối với phụ nữ, làm cho phụ nữ thiếu tin tưởng về vị trí, vai trò của mình đối với gia đình, cộng đồng xã hội. Tìm cách gieo rắc tư tưởng bị phân biệt, kỳ thị, làm giảm sự chung tay, cống hiến đóng góp của phụ nữ trên các lĩnh vực đời sống xã hội, thậm chí gây tư tưởng chia rẽ giữa phụ nữ các vùng miền, phụ nữ giữa các thành phần, dân tộc.

Không những vậy, các thế lực thù địch còn ra sức cổ xúy, thúc đẩy việc hình thành các tổ chức, hội, nhóm đối lập do các đối tượng chống đối là phụ nữ cầm đầu hoặc có sự tham gia của phụ nữ như “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội bầu bí tương thân”, “Hội dân oan” … Những hội nhóm lấy danh nghĩa giúp đưa tiếng nói, ý chí, nguyện vọng của nhân dân vào đóng góp xây dựng đất nước, kêu gọi quyền lợi cho phụ nữ nhưng thực chất đây là số hội nhóm có thái độ, hành động chống phá đất nước quyết liệt, được sự hậu thuẫn, hà hơi, tiếp sức của các thế lực thù địch, tổ chức, cá nhân phản động sống lưu vong ở nước ngoài. Số này núp dưới danh nghĩa, vỏ bọc “phản biện xã hội” để phản bội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý xã hội của Nhà nước cũng như tầm quan trọng của các tổ chức chính trị - xã hội, có những việc làm đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.

Quyền lợi của phụ nữ luôn được bảo đảm

Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ nam - nữ bình quyền là một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Bình đẳng giới và trao quyền năng cho phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn là một trong những mục tiêu chiến lược, lâu dài, quan trọng của Đảng, Nhà nước ta.

Về pháp lý, Việt Nam là một trong số các quốc gia có khung pháp luật và chính sách khá toàn diện, đầy đủ để thúc đẩy bình đẳng giới được khẳng định trong Điều 26, Hiến pháp 2013: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới”. Cùng với đó, hệ thống văn bản pháp luật từng bước cụ thể hóa Hiến pháp được hoàn thiện theo hướng bình đẳng giới như: Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Giáo dục, Luật Khám bệnh, chữa bệnh… Hệ thống chính sách, pháp luật nước ta đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, chúng ta đã tham gia ký kết nhiều công ước quốc tế và các chương trình nghị sự lớn về quyền của phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới.

Về chính trị, Việt Nam chủ trương khuyến khích sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy cơ quan công quyền. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đề cao, phát huy vai trò của phụ nữ như: Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ…

Về kinh tế, từ nhiều năm trước, Chính phủ ban hành nhiều nghị định ưu tiên hỗ trợ đối với phụ nữ như Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 về tiền lương, khẳng định quyền bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ trong việc trả lương; Nghị định số 33/2003/NĐ-CP ngày 02/4/2003 của Chính phủ quy định không được xử lý kỷ luật lao động đối với lao động nữ có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi và cả với lao động nam đang phải nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi; Nghị định số 39/2003/NĐ-CP ngày 18/4/2003 của Chính phủ quy định về những chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho các đối tượng là lao động nữ… Mặt khác, việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội tạo tiền đề để thực thi bình đẳng giới ngày càng hiệu quả hơn, các chính sách liên quan đến vai trò, vị trí của nam và nữ đều được thực hiện bình đẳng như nhau.

Về xã hội, Quyết định số 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025”; Đề án thúc đẩy phụ nữ tham gia phát triển kinh tế, tăng thu nhập cũng như kết nối, mở rộng liên kết, khuyến khích ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ cho phụ nữ và Quyết định số 938/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ giai đoạn 2017 – 2027, được Chính phủ ban hành ngày 30/6/2017… Các đề án này nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng, phát huy vai trò chủ động của phụ nữ trong ứng phó và tham gia giải quyết có hiệu quả một số vấn đề xã hội, đề án hướng tới mục tiêu giảm thiểu những tác động tiêu cực, nâng cao chất lượng cuộc sống phụ nữ, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Những con số biết nói

Những năm qua, Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ với một chiến lược rõ ràng, nhất quán và phù hợp với thực tiễn. Việt Nam là một trong những quốc gia hoàn thành sớm nhất mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới, nâng cao vị thế cho phụ nữ và hiện đang nỗ lực thực hiện Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững 2030, trong đó có các mục tiêu về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái.

Trên phương diện kinh tế, phụ nữ Việt Nam đang ngày càng khẳng định được vị thế và vai trò của mình, có cơ hội để mang lại thu nhập cao hơn. Điều đó góp phần quan trọng giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong thập kỷ qua. Số doanh nghiệp do nữ giới lãnh đạo, điều hành, quản lý thành công ngày càng tăng cho thấy sự phấn đấu, trưởng thành, tiến bộ của phụ nữ, mặt khác khẳng định bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế.

Theo khảo sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam năm 2021, cứ 4 doanh nghiệp tư nhân sẽ có 1 doanh nghiệp do phụ nữ lãnh đạo, nữ giới đóng góp tới 40% của cải cho nền kinh tế Việt Nam. Báo cáo chỉ số nữ doanh nhân Mastercard (MIWE) năm 2021 cho thấy, số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ tại Việt Nam ở mức 26,5%, xếp thứ 9 trên 58 nền kinh tế được nghiên cứu về số lượng phụ nữ trong vai trò lãnh đạo.

Trong lĩnh vực chính trị, theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam là điểm sáng trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới. Hiện nay, trên tất cả các lĩnh vực đều có sự cống hiến của nữ giới, chất lượng, hiệu quả, uy tín của cán bộ nữ đã ngày càng chứng tỏ nỗ lực cá nhân phụ nữ cũng như vai trò của các cấp, các ngành trong quá trình thực hiện bình đẳng giới.

Sau Đại hội Đảng các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cán bộ nữ tham gia cấp uỷ các cấp tăng cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, tỷ lệ nữ ủy viên BCH Đảng bộ cấp tỉnh trung bình toàn quốc đạt 16%; có 61/63 tỉnh, thành phố có cán bộ nữ trong ban thường vụ. Trong Quốc hội, số lượng đại biểu nữ nhiệm kỳ khóa XV là 30,26%, tăng 3,54% so với khoá XIV (26,72%). Kết quả bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 cũng ghi nhận sự tăng lên của các nữ đại biểu, trong đó tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh đạt 29% (so với 26,5% của nhiệm kỳ trước).

Đối với văn hóa, giáo dục, phụ nữ Việt Nam ngày càng phát huy vai trò không thể thiếu trong xây dựng văn hóa con người Việt Nam, văn hóa gia đình, nếp sống khu dân cư, tích cực tham gia bài trừ các tập tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, có những cống hiến to lớn trong đánh thức tiềm năng văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Đặc biệt, trong giáo dục phụ nữ ngày càng khẳng định vị thế, vai trò có đầy đủ phẩm chất, năng lực trình độ để đảm nhận các vị trí quản lý, nhà giáo dục có trình độ học vấn cao.

Ông Jesper Morch, Trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam đã đánh giá: “Việt Nam là nước dẫn đầu khu vực châu Á-Thái Bình Dương về các chỉ số về bình đẳng giới qua việc cung cấp dịch vụ y tế và giáo dục tới các trẻ em gái, trẻ em trai, phụ nữ và nam giới. Sự chênh lệnh về tỷ lệ nhập học giữa các em nữ và các em nam là rất thấp”.

Mặt khác, trong triển khai công tác đối ngoại của Việt Nam thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ luôn là một trong những ưu tiên. Việt Nam cũng đã cử các nữ sĩ quan tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Liên quan đến vấn đề này, Đại sứ vương quốc Anh, Gareth Ward trong năm đầu tiên làm đại sứ Anh tại Việt Nam (năm 2019) chia sẻ: “Tôi đã được gặp nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt trong nhiều lĩnh vực khác nhau… Tôi cũng đã gặp một nhóm nữ chiến sĩ thuộc lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, những người sẽ đại diện cho Việt Nam tham gia một trong những phái bộ gìn giữ hòa bình nguy hiểm nhất của Liên hợp quốc tại Nam Sudan, góp phần vào hòa bình, ổn định và an ninh toàn cầu”.

Những kết quả này là minh chứng rõ nét cho thành tựu nổi bật của việc bảo đảm, thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam. Đây cũng là cơ sở đấu tranh, bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch xung quanh vấn đề này./.

Đại Thắng – Quang Thành, Nguồn: CAND

 Lợi dụng việc toàn dân đang đóng góp ý kiến cho dự án Luật Đất đai (sửa đổi), các thế lực xấu từ bên ngoài đã tăng cường chống phá.


Họ đưa ra các quan điểm phủ nhận sạch trơn giá trị của việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân và xuyên tạc rằng quy định như vậy để tạo điều kiện cho "chính quyền cướp đất của dân", là trở lực cho phát triển kinh tế. Họ cho rằng để chống tham nhũng, tiêu cực, để thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam phải thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai hoặc thừa nhận chế độ đa sở hữu đất đai. Có thể thấy, việc đồng nhất vấn đề sở hữu toàn dân về đất đai với thực trạng tham nhũng, tiêu cực có liên quan tới đất đai là sự đánh tráo giá trị, không đúng bản chất của vấn đề, chỉ lừa phỉnh được những người thiếu hiểu biết về vấn đề này.

Tại sao phải thực hiện sở hữu toàn dân về đất đai?

Trước hết cần khẳng định rằng, đất đai thuộc sở hữu toàn dân không phải là một thuật ngữ lý thuyết, trừu tượng, không có giá trị thực thi, không phải là sự giáo điều được du nhập từ Liên Xô vào Việt Nam như một số ý kiến trên các trang mạng, các diễn đàn đã cố ý bóp méo, gây hiểu lầm. Quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân thể hiện đúng bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 dựa trên cơ sở lý luận về tính tất yếu khách quan của việc xã hội hóa đất đai. Từ đó tới nay, qua một số lần sửa đổi Hiến pháp và sửa đổi Luật Đất đai, Đảng ta luôn kiên định quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân, giao cho Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý và sử dụng hiệu quả. Quan điểm này được Nhà nước thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật qua nhiều thời kỳ. Hiến pháp 2013 và Luật Đất đai 2013 đều quy định rõ vấn đề này. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về quản lý sử dụng đất và dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đang được đưa ra lấy ý kiến toàn dân cũng một lần nữa khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai đã góp phần quan trọng duy trì ổn định chính trị-xã hội (CT-XH), bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, bảo đảm sinh kế cho người nông dân. Thực tế đã cho thấy, quan điểm trên là đúng đắn, phù hợp với chế độ CT-XH, đặc điểm văn hóa, lịch sử và điều kiện tự nhiên của nước ta. Đó là vì:

Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm của Nhà nước ta là "tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân", thì nhân dân phải là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đặc biệt quý giá của quốc gia là đất đai. Ðất đai là thành quả của sự nghiệp dựng nước và giữ nước lâu dài của cả dân tộc, là thành quả từ công sức, xương máu của bao thế hệ, không thể để cho một số người nào đó có quyền độc chiếm sở hữu. Ðất đai của quốc gia dân tộc phải thuộc sở hữu chung của toàn dân và được sử dụng phục vụ cho mục đích chung của toàn dân tộc, của nhân dân.

Thứ hai, sở hữu toàn dân về đất đai tạo điều kiện để những người lao động tiếp cận đất đai tự do. Phải tạo cơ chế công bằng ngay từ gốc, tức là người lao động phải có tư liệu sản xuất, trong đó có đất đai, để lao động mưu sinh.

Thứ ba, trong điều kiện nước ta, việc thiết lập chế độ sở hữu tư nhân về đất đai là một yếu tố cản trở đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH). Bởi vì, trong chế độ sở hữu tư nhân đất đai, không ai có quyền ngăn cản người chủ đất sử dụng đất theo ý họ, vì đất là tài sản riêng của họ. Lý do này còn khiến đất đai có xu hướng được sử dụng không hiệu quả, chỉ bảo vệ lợi ích của chủ đất mà không quan tâm tới lợi ích sinh tồn của phần lớn dân cư, khi cần xây dựng những công trình công cộng thì sở hữu tư nhân về đất đai sẽ gây ra những trở lực lớn. Sở hữu tư nhân đất đai còn dẫn đến kết quả không mong muốn là tập trung đất đai trong tay một số người có nhiều tiền, hệ quả là có người sở hữu quá nhiều đất, người lại không có tấc đất cắm dùi. Điều này sẽ gây bất ổn xã hội. Với việc quy định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong Hiến pháp, khi phần lớn công dân bị bất lợi trong phân chia lợi ích từ đất đai, thì Nhà nước có thể sửa Luật Ðất đai phục vụ mục đích chung của công dân, sửa chữa những mất công bằng trong phân phối lợi ích từ đất đai do cơ chế thị trường đem lại. Nếu Hiến pháp tuyên bố sở hữu tư nhân về đất đai thì nhân danh quyền chủ sở hữu, bộ phận nhỏ dân cư sở hữu nhiều đất đai sẽ không cho phép phần lớn còn lại thay đổi chế độ phân phối lợi ích từ đất đai.


Ảnh minh họa: TTXVN

Thứ tư, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai tránh cho xã hội Việt Nam rơi vào tình trạng bất ổn do một số người có thể đòi hỏi xem xét lại các quyết định lịch sử về đất đai. Nếu thừa nhận sở hữu tư nhân đất đai hoặc đa sở hữu về đất đai, sẽ diễn ra các cuộc tranh chấp đòi lại quyền sở hữu nhà, đất trong quá khứ mà không cần tính đến các yếu tố lịch sử và hiện trạng, như vậy xã hội dễ lâm vào tình trạng bất ổn.

Thứ năm, nếu thừa nhận sở hữu tư nhân đất đai và cho phép người nước ngoài thỏa thuận mua bán đất với tư nhân thì nguy cơ mất chủ quyền lãnh thổ từ hệ lụy của nền kinh tế thị trường sẽ thành hiện thực. Đã có nhiều bài học nhãn tiền của một số nước trên thế giới về vấn đề này...

Quyền của người dân đối với đất đai được tôn trọng

Cũng có những ý kiến sai trái cho rằng sở hữu toàn dân về đất đai khiến đất đai trở thành vô chủ, không được sử dụng hiệu quả và không thể trở thành vốn. Thực tế thì Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản pháp luật liên quan đã trao cho người sử dụng đất khá nhiều quyền: Sử dụng (theo quy hoạch của Nhà nước), chuyển nhượng, thế chấp vay vốn, thừa kế, góp vốn... Về cơ bản, người sử dụng đất ở Việt Nam đã có gần hết quyền của chủ sở hữu cho phép họ đầu tư, sử dụng đất hiệu quả theo năng lực của họ. Một số hạn chế của quyền chủ sở hữu mà người sử dụng đất không có là: Không được tùy ý chuyển mục đích sử dụng đất; hạn điền; thời gian giao đất hữu hạn; phải giao lại đất cho Nhà nước để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, mục đích công cộng. Tương ứng với mở rộng quyền cho người sử dụng đất, quyền của cơ quan nhà nước với tư cách đại diện cho toàn dân thống nhất quản lý đất đai trong cả nước được quy định trên các mặt sau: Quy định mục đích sử dụng cho từng thửa đất (bằng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất); thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra.

Người sử dụng đất giữ lại cho mình hầu hết quyền của người sở hữu như chiếm giữ, sử dụng, giao dịch trên thị trường đất đai, thế chấp và thừa kế. Người dân chỉ giao lại cho Nhà nước một số quyền như: Quyền xây dựng quy hoạch, kế hoạch tổng thể sử dụng đất đai để cho hoạt động sử dụng đất đai của từng cá nhân và tổ chức không làm giảm hiệu quả sử dụng đất đai chung của quốc gia. Nhà nước phải hoàn thành nhiệm vụ xây dựng quy hoạch, kế hoạch và giám sát tuân thủ quy hoạch, kế hoạch cho tốt. Quyền bảo vệ đất đai và môi trường để ngăn cản những hành vi vụ lợi cá nhân của người dân làm tổn hại lợi ích chung. Quyền bảo hộ quyền chính đáng của dân cư đối với đất đai đã được quy định theo luật. Quyền bảo toàn lãnh thổ quốc gia trước các hành vi xâm phạm của nước ngoài. Người dân phải cung cấp tài chính qua thuế sử dụng đất cho Nhà nước để duy trì các hoạt động của mình.

So sánh với luật đất đai của một số nước duy trì tư hữu về đất đai, quyền của người sử dụng đất của Việt Nam cũng không có chênh lệch đáng kể. Như vậy, không có sự khác biệt lớn về phương diện tạo quyền tự chủ cho người sản xuất, kinh doanh sử dụng đất hiệu quả giữa chế độ sở hữu toàn dân về đất đai của nước ta và chế độ tư hữu đất đai ở một số nước.

Sở hữu toàn dân về đất đai không phải là nguyên nhân của tham nhũng, tiêu cực

Về bản chất, sở hữu toàn dân về đất đai không phải là nguồn gốc của nạn tham nhũng, tiêu cực và thực tế phức tạp hiện nay về đất đai. Thực trạng quản lý, sử dụng đất đai đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết bắt nguồn không phải từ bản chất vốn có của sở hữu toàn dân về đất đai, mà bắt nguồn từ sự yếu kém kéo dài trong việc không hiện thực hóa thiết chế thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; bắt nguồn từ hệ lụy yếu kém trong quản lý đất đai.

Luật Đất đai năm 2013 và phương thức Nhà nước thực hiện luật nói trên có nhiều điểm chưa hợp lý cần phải khắc phục. Vấn đề gây bức xúc nhất hiện nay ở nước ta là ở chất lượng, thái độ thực thi Luật Đất đai của cơ quan và công chức nhà nước chưa tốt, tồn tại quá nhiều trường hợp lạm dụng quyền lực công phục vụ cho mục tiêu riêng của cá nhân, của gia đình, của nhóm lợi ích. Một số trường hợp cơ quan nhà nước thu hồi đất của dân không đúng quy định của pháp luật. Sự giàu có bất thường của không ít đại gia kinh doanh bất động sản ở nước ta thời gian qua có tác động từ mức chênh lệch giá quá lớn trong các dự án chuyển đổi đất nông nghiệp thành đất đô thị và giá đất đền bù cho người có quyền sử dụng đất hợp pháp. Tình trạng quy hoạch bị điều chỉnh tùy tiện, quy hoạch treo, tình trạng đất thu hồi bị bỏ hoang còn người mất đất lâm vào tình trạng thất nghiệp, khó khăn... cho thấy quản lý của Nhà nước chưa tương xứng với yêu cầu cần phải có trong chế độ sở hữu toàn dân.

Những vấn đề này không thể giải quyết bằng cách chuyển toàn bộ quyền quản lý đó cho khu vực tư nhân thông qua tư hữu hóa hoặc đa dạng hóa sở hữu đất đai. Vì làm như vậy thì chỉ khiến tình hình thêm phức tạp, những rủi ro khó lường hết hậu quả. Ngược lại, chỉ có thể giải quyết tốt các vấn đề này bằng việc đẩy mạnh cải cách trong các cơ quan nhà nước, minh bạch hóa, công khai hóa cơ chế quản lý, sử dụng đất đai; siết chặt kỷ luật và trách nhiệm giải trình của công chức và chuyển giao cho người dân những quyền mà người sử dụng đất thực thi có lợi hơn cơ quan nhà nước.

Để hạn chế tình trạng thu hồi đất một cách tùy tiện ảnh hưởng tới lợi ích của người sử dụng đất, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã định hướng quy định cụ thể hơn về thẩm quyền, mục đích, phạm vi thu hồi đất, điều kiện, tiêu chí cụ thể việc Nhà nước thu hồi đất để phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng. Tiếp tục thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại.

Đồng thời, có lẽ cần nghiên cứu phân chia địa tô chênh lệch giữa xã hội (mà Nhà nước là đại diện), người có đất bị thu hồi và người nhận đất sử dụng cho mục đích mới trong giá đất thu hồi. Nhà nước cũng phải nâng cao năng lực sử dụng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với tư cách công cụ quản lý vì lợi ích quốc gia. Thực hiện được tốt những định hướng trên sẽ hạn chế được tác động tiêu cực của các nhóm lợi ích vào lĩnh vực đất đai.

Sở hữu toàn dân về đất đai tạo điều kiện để Nhà nước XHCN bảo vệ lợi ích của người dân tốt nhất. Những sai lầm và thiếu sót của cơ quan nhà nước thời gian qua trong lĩnh vực đất đai không phải là bản chất của Nhà nước XHCN và có thể sửa chữa được. Vì thế, cần tỉnh táo nhận thức rõ mưu đồ của kẻ xấu xuyên tạc chính sách đất đai của Đảng, Nhà nước ta hòng kích động, gây bất ổn môi trường CT-XH của nước ta. Từ đó, các cơ quan, bộ, ngành, đơn vị, địa phương cần vận động nhân dân tích cực đóng góp ý kiến chất lượng, hiệu quả cho dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), kịp thời nhận diện, đấu tranh với các luồng ý kiến sai trái./.

MINH NGỌC - Nguồn: QĐND

 Sáng 24-2, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng tổ chức Lễ tuyên dương lực lượng Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam tham gia hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ.


Phát huy phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ

Dự lễ tuyên dương có các đồng chí: Đại tướng Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam; Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Võ Minh Lương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Đại sứ Thổ Nhĩ Kỳ tại Việt Nam Haldun Tekneci. Dự buổi lễ còn có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu, thủ trưởng Tổng cục Chính trị, đại biểu các ban, bộ, ngành Trung ương, đại diện Văn phòng Điều phối viên thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam...

Thảm họa động đất ngày 6-2 đã gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về người và tài sản tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria. Phát huy truyền thống tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam, trên tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; hưởng ứng lời kêu gọi của Liên hợp quốc và thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã quyết định cử 76 đồng chí sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp cùng một số chó nghiệp vụ và nhiều trang thiết bị sang Thổ Nhĩ Kỳ tham gia hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa động đất.


Đại tướng Lương Cường và Thượng tướng Nguyễn Tân Cương trao bằng khen của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tặng các cá nhân. Ảnh: VIỆT TRUNG

Phát biểu tại lễ tuyên dương, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương nhấn mạnh đây là lần đầu tiên QĐND Việt Nam cử lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa động đất ở nước ngoài. Mặc dù triển khai nhiệm vụ trong khoảng thời gian rất ngắn, phải đối mặt với nhiều điều kiện vô cùng khắc nghiệt về thời tiết, những hiểm nguy từ các rung chấn còn tiếp diễn, những khó khăn về ngôn ngữ, tập quán, điều kiện ăn ở, sinh hoạt và làm việc, song được sự quan tâm động viên, chỉ đạo sâu sát, thường xuyên của Quân ủy Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng, thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu, thủ trưởng Tổng cục Chính trị, lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là với tinh thần đoàn kết, bản lĩnh, trình độ và ý chí quyết tâm cao, đoàn công tác đã phát huy tốt tinh thần quốc tế cao cả, truyền thống của dân tộc Việt Nam anh hùng, QĐND Việt Nam anh hùng và phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ, bình tĩnh, tự tin, không quản khó khăn, gian khổ, không sợ hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh, chạy đua với thời gian, tranh thủ từng giờ, từng phút để phối hợp tìm kiếm cứu nạn, kịp thời xác định nhiều điểm có người bị mắc nạn, bàn giao cho chính quyền và lực lượng chức năng nước sở tại xử lý. “Việc làm đó rất đáng trân trọng, thể hiện trách nhiệm, năng lực, uy tín của Quân đội ta trước những vấn đề an ninh phi truyền thống, được cộng đồng quốc tế, Chính phủ và nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ ghi nhận và đánh giá cao; được cán bộ, chiến sĩ toàn quân và đông đảo nhân dân trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài quan tâm theo dõi, động viên”, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương khẳng định.

Thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương nhiệt liệt biểu dương thành tích của đoàn công tác, biểu dương các cơ quan chức năng, lãnh đạo và chỉ huy các đơn vị đã lãnh đạo, chỉ đạo, chủ động phối hợp tổ chức bảo đảm cho lực lượng tham gia hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần nâng cao uy tín, vị thế cho Quân đội và Tổ quốc. Nhân dịp này, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương gửi lời chia buồn sâu sắc đến Đại sứ Haldun Tekneci, Chính phủ và nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ, đặc biệt là đến các gia đình có người tử nạn và bị thương, những em nhỏ mồ côi, những người bị mất mát nhà cửa đang phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. “Bằng tình cảm chân thành của mình, QĐND Việt Nam coi những mất mát, thiệt hại to lớn của nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ phải gánh chịu trong thảm họa động đất vừa qua cũng là những mất mát, đau thương của chính mình. Chúng tôi tin tưởng rằng với sự nỗ lực, quyết tâm của Chính phủ và nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ cùng sự hỗ trợ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, Thổ Nhĩ Kỳ sẽ sớm vượt qua nỗi đau thương, mất mát này”, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương nói.

Qua kết quả đợt tham gia hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ vừa qua, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương đề nghị đánh giá rút kinh nghiệm về công tác chuẩn bị, tổ chức lực lượng, phương tiện, trang thiết bị thực hiện nhiệm vụ; đồng thời nghiên cứu, tiếp thu những kinh nghiệm từ các nước cùng tham gia hỗ trợ tại Thổ Nhĩ Kỳ để chọn lọc nội dung phù hợp, bổ sung vào chương trình huấn luyện nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng tổng hợp, sức cơ động, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Nghĩa cử cao đẹp

Phát biểu tại lễ tuyên dương, Đại sứ Haldun Tekneci cho biết mặc dù đã có kinh nghiệm đối phó với động đất, nhưng quy mô và mức độ tàn phá nghiêm trọng của các trận động đất vừa qua đã vượt ra ngoài khả năng của Thổ Nhĩ Kỳ. Vì vậy, Thổ Nhĩ Kỳ rất cần sự chung tay giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh như vậy, nhiều quốc gia đã nhanh chóng hỗ trợ Thổ Nhĩ Kỳ dưới mọi hình thức nhằm thúc đẩy tối đa các nỗ lực cứu hộ, cứu nạn. Việt Nam chính là một trong những quốc gia đầu tiên cử lực lượng cứu hộ, cứu nạn của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an tới Thổ Nhĩ Kỳ.

Đại sứ Haldun Tekneci đánh giá cao tinh thần dũng cảm, những nỗ lực không mệt mỏi, đóng góp quên mình cùng những hành động vô cùng cao đẹp của lực lượng cứu hộ, cứu nạn Việt Nam. “Nghĩa cử cao đẹp này đã thể hiện rõ cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện sứ mệnh nhân đạo toàn cầu. Điều này đã phản ánh mối quan hệ hữu nghị song phương hết sức tốt đẹp mà Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam đã theo đuổi trong nhiều năm qua. Tôi xin trân trọng cảm ơn Bộ Quốc phòng và Bộ Công an Việt Nam đã đóng góp to lớn cho những nỗ lực của Thổ Nhĩ Kỳ; cảm ơn các đội tham gia cứu hộ, cứu nạn đã quên mình phục vụ và không ngại hiểm nguy tại đất nước chúng tôi; cảm ơn Chính phủ Việt Nam vì tình đoàn kết, tương thân tương ái mà các bạn đã dành cho chúng tôi trong thời khắc vô cùng khó khăn vừa qua”, Đại sứ Haldun Tekneci bày tỏ.

Là một trong số 76 thành viên đoàn QĐND Việt Nam tham gia hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ, Thiếu tá Lê Đức Tài, Phó tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 93, Binh chủng Công binh cho biết, việc tận mắt chứng kiến những mất mát đau thương cùng cuộc sống vô cùng khó khăn, thiếu thốn của người dân địa phương sau thảm họa đã thôi thúc đoàn khẩn trương, nỗ lực hết sức mình triển khai công tác cứu hộ, cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo. Các thành viên trong đoàn đều xác định đây chính là mệnh lệnh trái tim, là bản chất, truyền thống QĐND Việt Nam, phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ. “Chúng tôi sẽ không thể nào quên hình ảnh người dân và lực lượng cứu hộ Thổ Nhĩ Kỳ đặt tay lên ngực trái mỗi khi chúng tôi và lực lượng cứu hộ quốc tế đi qua, như muốn nói lời cảm ơn bằng cả trái tim mình”, Thiếu tá Lê Đức Tài chia sẻ.
Tại lễ tuyên dương, Thiếu tướng Lê Xuân Sang, Phó cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị cho biết, căn cứ thành tích của các tập thể, cá nhân đạt được trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn tại Thổ Nhĩ Kỳ, Bộ Quốc phòng đã xem xét, đề nghị Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen cho 4 tập thể và 7 cá nhân. Thiếu tướng Lê Xuân Sang cũng công bố các quyết định tặng bằng khen của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cho 76 cá nhân, tặng bằng khen của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cho 22 cá nhân, tặng bằng khen của Ban Chấp hành Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam cho 8 tập thể vì đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, tham gia khắc phục hậu quả thảm họa động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Nhân dịp này, Đại tướng Lương Cường, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Thượng tướng Võ Minh Lương và Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến đã trao bằng khen của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tặng 76 cá nhân; đại diện Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã trao bằng khen tặng các tập thể và cá nhân.
HOÀNG VŨ - Nguồn: QĐND

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.