Ngày 20/5/2024, lãnh đạo Ủy ban Nhân dân (UBND) thị trấn Kiến Xương, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với 14 người về hành vi tập trung đông người trái phép, nằm, ngồi trên đường bộ để chụp ảnh gây cản trở giao thông. Đây là một sự việc đáng chú ý, thu hút sự quan tâm của dư luận và đặt ra câu hỏi về ý thức tham gia giao thông của một bộ phận người dân.

Trước đó ngày 17/5, mạng xã hội lan truyền hình ảnh một nhóm người tập Yoga có hành vi nằm, ngồi trên đường giao thông để chụp ảnh. Hình ảnh này được chụp tại khu vực ngã ba đường Trần Hưng Đạo giao nhau với đường Nguyễn Công Thu, thuộc tổ dân phố Tân Hưng, thị trấn Kiến Xương. Những hình ảnh này nhanh chóng gây bức xúc trong cộng đồng mạng do hành vi tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn giao thông.

Hình ảnh nhóm người tập Yoga nằm, ngồi trên đường giao thông chụp ảnh khiến nhiều người bức xúc (Ảnh: Facebook).

Những người trong nhóm này đều là phụ nữ, tổng cộng 17 người, và họ đã cùng nhau thực hiện các thế Yoga trên đường bộ để chụp ảnh kỷ niệm mùa hoa bằng lăng. Đây là một hành động không chỉ gây cản trở giao thông mà còn tiềm ẩn nguy cơ tai nạn. Dư luận xã hội phản ứng mạnh mẽ trước hành vi này, cho rằng đó là hành động thiếu ý thức và không tôn trọng quy định giao thông.

Sau khi nhận được thông tin về vụ việc, cơ quan chức năng của thị trấn Kiến Xương đã ngay lập tức tiến hành xác minh. Vào chiều ngày 18/5, Công an thị trấn Kiến Xương đã mời nhóm người trên lên trụ sở để làm việc và lập biên bản vụ việc. Qua xác minh, lực lượng chức năng xác định vụ việc diễn ra vào khoảng 4h30 ngày 17/5.

Tiếp theo, Chủ tịch UBND thị trấn Kiến Xương đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với 14 người trong nhóm này về hành vi: tập trung đông người trái phép, nằm, ngồi trên đường bộ gây cản trở giao thông. Hành vi này vi phạm quy định tại Điểm a, Khoản 2, Điều 11, Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Mỗi người bị xử phạt hành chính 150.000 đồng.

Đối với ba trường hợp vi phạm chưa đủ tuổi vị thành niên, chính quyền địa phương đã tuyên truyền, nhắc nhở và không áp dụng hình thức xử phạt hành chính.

Theo Nghị định số 100/2019/NĐ-CP, các hành vi gây cản trở giao thông, tụ tập đông người trái phép trên đường bộ là vi phạm nghiêm trọng. Mục đích của các quy định này nhằm đảm bảo an toàn giao thông, tránh các tình huống nguy hiểm có thể dẫn đến tai nạn.

Việc xử phạt nhóm phụ nữ tập Yoga giữa đường không chỉ là biện pháp răn đe mà còn nhằm nâng cao nhận thức của người dân về an toàn giao thông. Ý thức tham gia giao thông của mỗi cá nhân có ảnh hưởng lớn đến trật tự và an toàn của toàn xã hội. Hành động này của cơ quan chức năng thể hiện sự nghiêm túc trong việc thực thi pháp luật và bảo vệ an toàn cho người tham gia giao thông.

Sau khi bị mời lên làm việc và bị xử phạt, nhóm người trên đã nhận thức rõ hành vi sai trái của mình. Họ cho biết hành động nằm, ngồi trên đường chụp ảnh chỉ nhằm mục đích kỷ niệm và không lường trước được hậu quả cũng như mức độ vi phạm. Qua sự việc này, nhóm người đã nhận được bài học đắt giá về việc tuân thủ quy định giao thông và trách nhiệm công dân.

Sự việc nhóm phụ nữ tập Yoga giữa đường tại Kiến Xương đã dấy lên nhiều tranh cãi và phản ánh thực trạng ý thức giao thông của một bộ phận người dân. Đây không phải lần đầu tiên xảy ra các hành vi vi phạm giao thông kiểu này, nhưng nó là lời cảnh tỉnh mạnh mẽ cho cộng đồng về việc tuân thủ pháp luật giao thông.

Các cơ quan chức năng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục về an toàn giao thông và ý thức công dân. Những hình ảnh và hành vi vi phạm cần được xử lý nghiêm minh để tạo tính răn đe và nâng cao nhận thức của người dân. Ngoài ra, cộng đồng mạng và các phương tiện truyền thông cũng cần có vai trò tích cực trong việc lan tỏa những thông điệp tích cực, nhắc nhở mọi người tuân thủ quy định giao thông.

Đáng chú ý, cơ quan chức năng xử phạt nhóm phụ nữ tập Yoga giữa đường tại Kiến Xương là cần thiết và đúng đắn, nhằm bảo vệ an toàn cho người dân và duy trì trật tự giao thông. Hy vọng từ sự việc này, mọi người sẽ rút ra được bài học về việc tuân thủ quy định pháp luật, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc tham gia giao thông.

 Sáng 22/5, sau Lễ Tuyên thệ diễn ra trọng thể tại hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội, tân Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu nhậm chức với nhiều thông điệp và những cam kết đáng chú ý.

Tân Chủ tịch nước trân trọng cảm ơn Quốc hội đã tín nhiệm bầu và giao cho ông trọng trách Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trân trọng cảm ơn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã tin cậy giới thiệu ông đảm nhận trọng trách cao cả này.

Tân Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu nhậm chức. Ảnh: Phạm Thắng

“Tôi ý thức sâu sắc rằng, đây là vinh dự, là trách nhiệm to lớn, đồng thời là cơ hội để cùng với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư dốc toàn bộ tâm sức, trí lực phụng sự đất nước, phục vụ Nhân dân theo con đường mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn”, tân Chủ tịch nước nhấn mạnh.

Chủ tịch nước bày tỏ mãi mãi khắc ghi và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; của các bậc tiền bối, của hàng triệu anh hùng liệt sĩ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và nghĩa vụ quốc tế cao cả; những đóng góp to lớn của Nhân dân, những người đã quên mình trong lao động, sáng tạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình, nhạy bén của Đảng; sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị; sự chung sức, đồng lòng của Nhân dân; sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế như ngày nay.

“Đây là những tiền đề hết sức quan trọng để tôi có thể hoàn thành tốt trọng trách được giao trên cương vị Chủ tịch nước; mặt khác cũng đặt ra yêu cầu, kỳ vọng cao hơn trong giai đoạn phát triển mới nhằm tạo ra những kỳ tích mới, vì mục tiêu ‘dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh’”, Chủ tịch nước chia sẻ.

Nhận thức sâu sắc trách nhiệm to lớn trước Đảng, Nhà nước, nhân dân, Chủ tịch nước Tô Lâm hứa sẽ thực hiện nghiêm túc, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước đã được Hiến định; tích cực thực hiện nhiệm vụ đối nội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh của đất nước; cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và các tổ chức trong hệ thống chính trị phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; nỗ lực thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng, trước hết là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, phấn đấu hoàn thành thắng lợi mục tiêu của đất nước 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trên cơ sở kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết; hạnh phúc, ấm no của nhân dân là trước hết, Chủ tịch nước Tô Lâm cho biết sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan, tập trung thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện pháp luật; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân trong giai đoạn mới; kiến tạo nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, tiên tiến, phát triển; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; ký kết các điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; chăm lo xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, hạnh phúc của nhân dân; lãnh đạo và tổ chức, thực hiện các phong trào Thi đua yêu nước thiết thực, hiệu quả gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Chủ tịch nước khẳng định sẽ cùng các đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa”; thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đi đôi với củng cố trật tự, kỷ cương; tập trung lãnh đạo xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nguồn lực nội sinh, động lực phát triển; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, hiện đại hóa đất nước.Kiên định và triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, mang đậm bản sắc ngoại giao “cây tre Việt Nam”, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng với ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân; phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại, góp phần đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ giữa nước ta với các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống và các nước lớn; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; xử lý hiệu quả, từ sớm, từ xa mọi thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; tiếp tục tích lũy thế và lực, củng cố vai trò, vị trí của Việt Nam trong nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại.

Cùng với đó, tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; củng cố vững chắc “thế trận lòng dân” trên cơ sở thế trận quốc phòng toàn dân, nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh; xây dựng lực lượng vũ trang thực sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.

Chủ tịch nước hứa đoàn kết thống nhất trong tập thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, không ngừng rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, đề cao trách nhiệm nêu gương, ra sức phấn đấu, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ; tiếp nối, kế thừa những thành quả cách mạng đã đạt được; cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy những truyền thống vẻ vang và những kinh nghiệm quý báu của Đảng ta, dân tộc ta, phát huy mạnh mẽ bản sắc văn hóa, hào khí và trí tuệ Việt Nam; tăng cường sự gắn kết tư tưởng và hành động, đem hết sức mình đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới và sự tin tưởng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Với sự thống nhất giữa “ý đảng lòng dân,” hòa quyện cùng quyết tâm và ý chí phát triển của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; với trí tuệ, bản lĩnh và quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ, sáng suốt của Đảng, sự ủng hộ của nhân dân, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, đất nước ta sẽ ngày càng phát triển phồn vinh, nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, dân tộc ta ngày càng cường thịnh, trường tồn, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc.

Chủ tịch nước Tô Lâm mong nhận được sự chỉ đạo, ủng hộ, phối hợp chặt chẽ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các ban, bộ, ngành, địa phương và đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài, để tôi hoàn thành trọng trách được giao.

Triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại giao “cây tre Việt Nam”

Chủ tịch nước nhấn mạnh đến việc kiên định và triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, mang đậm bản sắc ngoại giao “cây tre Việt Nam”, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng với ngoại giao nhà nước, đối ngoại Nhân dân; phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại, góp phần đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ giữa nước ta với các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống và các nước lớn.

Đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; xử lý hiệu quả, từ sớm, từ xa mọi thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; tiếp tục tích lũy thế và lực, củng cố vai trò, vị trí của Việt Nam trong nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chúc mừng tân Chủ tịch nước Tô Lâm. Ảnh: Phạm Thắng

Ngoài ra, tân Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; củng cố vững chắc “thế trận lòng dân” trên cơ sở thế trận quốc phòng toàn dân, nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh Nhân dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh; xây dựng lực lượng vũ trang thực sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.

“Tôi xin hứa, đoàn kết thống nhất trong tập thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, không ngừng rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, đề cao trách nhiệm nêu gương, ra sức phấn đấu, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ”, Chủ tịch nước cam kết.

Chủ tịch nước Tô Lâm cũng hứa tiếp nối, kế thừa những thành quả cách mạng đã đạt được; cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy những truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm quý báu của Đảng ta, dân tộc ta, phát huy mạnh mẽ bản sắc văn hóa, hào khí và trí tuệ Việt Nam; tăng cường sự gắn kết tư tưởng và hành động, đem hết sức mình đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới và sự tin tưởng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta

Tân Chủ tịch nước bày tỏ tin tưởng chắc chắn rằng, đất nước ta sẽ ngày càng phát triển phồn vinh, Nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, dân tộc ta ngày càng cường thịnh, trường tồn, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc.

Ông mong nhận được sự chỉ đạo, ủng hộ, phối hợp chặt chẽ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các ban, bộ, ngành, địa phương và đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài, để hoàn thành trọng trách được giao.

 Ba tháng sau chuyến thăm của tổng thống Mỹ Joe Biden tới Việt Nam và hai nước nâng cấp quan hệ ngoại giao lên mức cao nhất là đối tác chiến lược toàn diện, chuyến thăm Việt Nam của Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình diễn ra từ 12-13/12/2023 đang thu hút sự quan tâm theo dõi đặc biệt của dư luận trong nước và quốc tế.


Trong bối cảnh tình hình thế giới đang có những biến động nhanh chóng, phức tạp, cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đang ngày càng quyết liệt, việc các cường quốc Mỹ, Trung Quốc vừa điều chỉnh chính sách của mình, vừa tìm cách lôi kéo các nước đang phát triển vào vòng ảnh hưởng của họ nhằm mục đích giành lợi thế là điều dễ hiểu. Việt Nam, một quốc gia có vị trí địa chính trị quan trọng, một ngôi sao đang lên của khu vực với uy tín và vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế, đang nằm trong những toan tính chiến lược của các cường quốc.

Các thế lực xấu tất nhiên không bỏ lỡ cơ hội chọc ngoáy, chống phá Việt Nam nhân chuyến thăm lần này của ông Tập Cận Bình. Bên cạnh những luận điệu xuyên tạc quen thuộc như: “Việt Nam theo Mỹ sẽ mất Đảng, theo Trung Quốc sẽ mất nước”, “Trung Quốc đang dần lấy hết biển, đảo của Việt Nam”, “Chính sách làm bạn với tất cả các nước của Việt Nam chẳng giúp Việt Nam bảo vệ được Biển Đông trước anh bạn phương Bắc đâu”, “Việt Nam không thể cứ lựa chọn cách cân bằng quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc để hưởng lợi như hiện nay, mà sớm muộn cũng phải chọn bên”…, lần này xuất hiện thêm những thông tin, luận điệu xuyên tạc về một chủ đề khá mới và nhạy cảm liên quan đến khái niệm “cộng đồng chung vận mệnh” (hay nói theo cách mà ông Tập Cận Bình thường dùng gần đây là “cộng đồng chia sẻ tương lai”) do phía Trung Quốc khởi xướng. Trên các nền tảng MXH xuất hiện không ít bài viết, bình luận trái chiều về vấn đề này, đại loại như: “Việt Nam và Trung Quốc chẳng có vận mệnh chung gì hết”, “Cái bẫy của Tập Cận Bình đây mà”, “Việt Nam khó mà thoát khỏi vòng kim cô của Trung Quốc”, “Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc”, “Xưa nay trên thế giới chưa có hai quốc gia nào mà tuyên bố có chung vận mệnh với nhau cả. Nếu có thì đó chỉ là sự lừa bịp”, “Chỉ có ĐCS Việt Nam mới có nhu cầu chung vận mệnh, còn nhân dân thì nói không với kẻ suốt ngày chỉ lăm le cướp biển đảo của Việt Nam”, “Đây chỉ là lối nói xảo ngôn của Tàu Cộng. Chớ nên tin”…

Mục đích của các thế lực chống phá là bôi nhọ quan hệ Việt – Trung, xuyên tạc đường lối đối ngoại, chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước Việt Nam là lệ thuộc, bị chi phối bởi các cường quốc, từ đó gây nghi ngờ, hoang mang, dao động, gây chia rẽ từ bên trong, ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh và quan hệ của Việt Nam với các nước, nhất là các nước đối tác, đối tác chiến lược, khiến dư luận trong và ngoài nước hiểu sai lệch về Việt Nam.

Khái niệm “cộng đồng chung vận mệnh” được ông Tập Cận Bình nêu ra cách đây khoảng 10 năm, được Trung Quốc quảng bá như “một loại hình quan hệ quốc tế mới với sự tôn trọng lẫn nhau, công bằng, chính đáng và hợp tác cùng có lợi”. Trong bài viết của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gửi đăng trên báo Nhân Dân của Việt Nam ngay trước khi chuyến thăm diễn ra, khái niệm này đã nhiều lần được đề cập đến.

Tại cuộc hội đàm diễn ra chiều ngày 12/12/2023 giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, hai bên đã nhất trí xây dựng “Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam – Trung Quốc” có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại, phù hợp với Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, kiên trì giải quyết bất đồng thông qua biện pháp hòa bình.

Trong phát biểu của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh Việt Nam coi phát triển quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu và là sự lựa chọn chiến lược, đồng thời cũng khẳng định đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại cũng như đường lối quốc phòng “4 không”.

Với lời khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam chắc chắn sẽ xem xét, nghiên cứu và trao đổi với phía Trung Quốc về những nội hàm cụ thể của “Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam – Trung Quốc” để vừa phát triển quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, vừa bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia dựa trên Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế.

Trong thời gian tới, chắc chắn các thế lực thù địch, bất mãn, cơ hội chính trị sẽ tiếp tục thông tin xuyên tạc về các vấn đề liên quan đến “cộng đồng chung vận mệnh”, “cộng đồng chia sẻ tương lai” để chống phá Việt Nam. Vì vậy, những người sử dụng MXH cần phải cảnh giác trước những âm mưu của các thế lực xấu, thường xuyên nâng cao hiểu biết và ý thức trách nhiệm khi sử dụng MXH, không chia sẻ thông tin có nội dung xuyên tạc, đi ngược lại quan điểm, chính sách đối ngoại của Ðảng và Nhà nước cũng như lợi ích dân tộc, lợi ích đất nước./.

Nguồn: ivanlevanlan

 Thời gian qua, lợi dụng những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thông qua nhiều âm mưu nham hiểm nhằm xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.


Sự nham hiểm của những luận điệu xuyên tạc

Biển là không gian chiến lược mở, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đường lối, chiến lược và tương lai phát triển của đất nước. Biển Đông là “bản lề” nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, là nơi hội tụ lợi ích chiến lược và thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực, nhất là các nước lớn. Về mặt tiềm năng phát triển, Biển Đông có nhiều lợi thế. Nơi đây đã và đang trở thành tâm điểm của sự cạnh tranh lợi ích, quyền lực và tầm ảnh hưởng của các nước lớn, được các chuyên gia quân sự ví như vùng “chảo lửa” trên bàn cờ chính trị của khu vực với nhiều diễn biến phức tạp, nhạy cảm.

Lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị khai thác triệt để, biến tấu thành nhiều bài viết, hình ảnh, video nhằm bịa đặt tình hình, bóp méo sự thật, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta trong công tác quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo; lợi dụng các trang mạng xã hội để lan truyền, tán phát thông tin, gây tâm lý hoang mang, bất ổn, chia rẽ đoàn kết trong nước và quốc tế.

Với những nội dung xuyên tạc xảo trá, họ thường lặp đi lặp lại luận điệu cũ rích rằng: “Cộng sản Việt Nam làm ngơ về vấn đề chủ quyền trên Biển Đông”; Đảng, Nhà nước Việt Nam im lặng vì đã thỏa hiệp với nước lớn, không cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình Biển Đông, không có giải pháp đủ mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo... Những thông tin xuyên tạc này ít nhiều đã tác động tiêu cực tới nhận thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin của một bộ phận nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.

Chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam

Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo. Quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là kiên quyết, kiên trì đấu tranh quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên các vùng biển, đảo quốc gia. Sinh thời, khi đến thăm cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.

Những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ phát triển mạnh kinh tế-xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9-2-2007 “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo”. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”. Tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.


Ngư dân lao động trên vùng biển Phú Yên. Ảnh: ĐÌNH HOÀNG

Như vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của biển, đảo là một bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng không thể tách rời, bất khả xâm phạm của Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc nói chung, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền, bảo đảm an ninh, an toàn và lợi ích quốc gia-dân tộc trên các vùng biển, đảo nói riêng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quá trình hoạch định và triển khai thực hiện đường lối bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại và tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để phát triển kinh tế biển gắn với quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia.

Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia bằng biện pháp hòa bình

Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, trong đó chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, về biện pháp tiến hành, cần phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo, linh hoạt, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong các tình huống cụ thể với mục tiêu cao nhất là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc. Quan điểm, lập trường của Việt Nam về vấn đề Biển Đông, về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quốc gia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là rất rõ ràng và hoàn toàn có đầy đủ cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn.

Với những vấn đề còn tồn tại bất đồng, tranh chấp, Việt Nam nhất quán giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế. Là một quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã tham gia ký kết UNCLOS 1982, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp và nguyên tắc quan hệ quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và vì hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực, quốc tế.

Trên thực tế, trong những thời điểm mà quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên Biển Đông bị đe dọa, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình trên các diễn đàn quốc tế, khu vực thông qua các cuộc gặp gỡ, trao đổi đoàn các cấp trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao; chủ động kiềm chế, không có các hành động khiêu khích, không làm phức tạp tình hình; thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và thể hiện thiện chí để sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Xây dựng hệ thống các biện pháp hòa bình để giải quyết bất đồng, tranh chấp với các bên, các nước có liên quan, như biện pháp ngoại giao (đàm phán hòa bình; thương lượng; điều tra; trung gian hòa giải; sử dụng các tổ chức quốc tế, khu vực; ký kết các hiệp định song phương, đa phương...).

Trên tinh thần đó, Việt Nam luôn nỗ lực cao nhất để xử lý các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn trên biển; duy trì quan hệ hữu nghị với các bên, các nước. Kiên trì mục tiêu không để nước ngoài lấn chiếm nhưng cũng không để xảy ra xung đột; kiên trì tìm kiếm giải pháp lâu dài và yêu cầu các bên liên quan không có những hành động quá khích, cực đoan, làm phức tạp thêm tình hình, tuân thủ các cam kết đã ký kết, giải quyết mọi bất đồng trên cơ sở thượng tôn luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 và nguyên tắc chung sống hòa bình. Coi trọng thúc đẩy xây dựng lòng tin chiến lược với các đối tác; đẩy mạnh hợp tác đa phương trên các lĩnh vực bảo đảm an ninh, nghiên cứu khoa học-công nghệ, phòng, chống tội phạm trên biển... để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Một mặt, Việt Nam không tạo phe, không kết nhóm, không chọn bên, không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam nhằm tấn công các nước khác, không đi theo nước này để chống lại nước kia, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Mặt khác, chúng ta cũng không mơ hồ, mất cảnh giác, né tránh, nhân nhượng vô nguyên tắc, không thụ động, không dựa dẫm, không trông chờ ỷ lại; không mắc mưu lôi kéo, kích động, khiêu khích của bất cứ thế lực nào; chỉ chọn theo chân lý, đứng về lẽ phải, dựa trên luật pháp quốc tế vì mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển.

Nhằm quán triệt và thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, thực hiện phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trên tinh thần “thêm bạn, bớt thù”, tranh thủ tối đa sự đồng thuận, ủng hộ của các bên liên quan cùng các nước trong khu vực và trên thế giới để hạn chế những bất đồng, khắc phục sự khác biệt, triệt để khai thác các nhân tố có lợi từ bên ngoài tạo thành sức mạnh tổng hợp.

Tập trung giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục; xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển (hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, kiểm ngư, dân quân tự vệ biển) vững mạnh; xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng chính trị-tinh thần vững chắc.

Tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý, bảo vệ biển, đảo phù hợp với luật pháp quốc tế. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an ninh; tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại quốc phòng về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.

Những quan điểm nêu trên là đường lối chính trị, căn cứ pháp lý để xây dựng sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin trong nước, quốc tế, tạo thành nền tảng và sức mạnh tổng hợp quốc gia; đồng thời là cơ sở để đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; để dư luận quốc tế hiểu rõ về lập trường, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia trong tình hình hiện nay./.

Đại tá, ThS TRẦN ĐỨC TIẾNKhoa Lịch sử nghệ thuật quân sự, Học viện Chính trị - Nguồn: QĐND

 Ngày 04/11 vừa qua, Đài RFA phát tán tài liệu “Người Thượng ở Mỹ biểu tình phản đối chính quyền Hà Nội đàn áp người sắc tộc ở Tây Nguyên” có nội dung khuếch trương việc hơn 100 người thuộc các sắc tộc Đề ga, Chăm và Khmer tập trung trước tòa nhà Quốc hội Mỹ để biểu tình, vu khống chính quyền Việt Nam “đàn áp” người dân bản địa tại Tây Nguyên. Thực chất đây là hành động của những “con rối” chính trị bị các thế lực xấu kích động, giật dây nhằm thu hút sự chú ý của dư luận, làm phức tạp tình hình; kích động, chia rẽ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định an ninh chính trị mà thôi.



Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh Kon Tum vui đón Tết cùng đồng bào

Bởi vì, Đảng, Nhà nước, Nhân dân Việt Nam luôn xác định khối đại đoàn kết toàn dân tộc là cội nguồn sức mạnh, là động lực để xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, giàu mạnh. Theo đó, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách xây dựng, không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đối với vùng Tây nguyên là vùng đất cao nguyên đa dạng về địa hình, vùng đất của nhiều dân tộc thiểu số (gồm 47 dân tộc cùng sinh sống). Những năm qua, vùng Tây Nguyên được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, đầu tư với nhiều chính sách nhằm tạo sự ổn định, phát triển bền vững và đạt được nhiều thành tựu quan trọng: kinh tế - xã hội nội vùng phát triển, việc liên kết vùng và hội nhập quốc tế có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và đồng bào các dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện. Tiềm lực quốc phòng, an ninh từng bước được tăng cường; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân”, góp phần chủ động phòng ngừa các nguy cơ đe dọa từ bên ngoài, giải quyết căn bản những vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tạo nền tảng vững chắc để phát triển kinh tế - xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, việc Đài RFA phát tán tài liệu cho rằng: chính quyền Hà Nội đàn áp người sắc tộc ở Tây Nguyên là hoàn toàn bịa đặt, vu khống, cần bác bỏ.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau từ đặc điểm địa hình, điều kiện tự nhiên, khí hậu, thời tiết, lối sống, phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số,… nên mặc dù đã được quan tâm đầu tư phát triển toàn diện song trình độ dân trí, đời sống của đồng bào các dân tộc nơi đây vẫn còn gặp khó khăn. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lôi kéo các phần tử phản động lưu vong ở nước ngoài liên kết, móc nối với những phần tử phản động, bất mãn ở trong nước “đội lốt” đấu tranh cho các vấn đề: “dân tộc”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo”,… để tuyên truyền, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; lôi kéo, xúi giục đồng bào dân tộc thiểu số tụ tập đông người, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, v.v. Thực tế cho thấy, cùng với lôi kéo, xúi giục tổ chức biểu tình, hội họp, kêu gọi đấu tranh, vu khống Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền,… ở nước ngoài, các thế lực xấu còn móc nối, tổ chức nhiều hoạt động chống phá ở trong nước, như: đòi thành lập cái gọi là Nhà nước Đề ga tự trị; tổ chức sinh hoạt tôn giáo, truyền đạo trái pháp luật; kích động, tổ chức hoạt động khủng bố,… mà điển hình là vụ tấn công vào trụ sở Ủy ban nhân dân xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk ngày 11/6/2023.

Rồi đây, hành động của những “con rối” chính trị khi tiếp tay hoặc trực tiếp thực hiện những hành động chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ phải trả giá, chịu sự trừng phạt nghiêm minh của pháp luật. Vì thế, những ai còn đang mơ hồ, ảo tưởng, trông chờ, hi vọng vào sự tài trợ, hà hơi, tiếp sức của các thế lực xấu để đổi đời cần sớm tỉnh ngộ, quay đầu là bờ khi chưa quá muộn./.

Tre Việt

 

Hội nghị Trung ương 8, khóa XIII của Đảng đã tiến hành quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV, một nhiệm vụ rất quan trọng không chỉ ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của đất nước trong nhiệm kỳ tới mà cả những năm tiếp theo.

Ấy vậy mà, trên trang “Thongluan-rdp”, kẻ tự xưng “Nguyễn Ngọc Già” phát tán nhiều thông tin xấu độc xuyên tạc nền tảng tư tưởng và công tác nhân sự Đại hôi XIV của Đảng. Nguyễn Ngọc Già xuyên tạc rằng, “Đảng ta trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong khi chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã phạm vào tính vận động, hoàn toàn đứng yên, một dạng chết cứng về tư tưởng, vì thế tư tưởng của toàn bộ các đảng viên cao cấp nhất đều đứng yên rồi”; “Y” còn cố tình bịa đặt rằng, “Vấn đề lựa chọn nhân sự qua các kỳ đại hội đảng không tạo ra bất kỳ yếu tố mới nào …vì trung thành với chủ nghĩa Mác – Lê nin…”. Đây là những luận điệu sai trái của phần tử phản động, cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác – lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng ta về công tác cán bộ. Mục đích thâm độc của chúng là phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam cần đề cao cảnh giác để không bị mắc mưu của kẻ xấu.

Như chúng ta đã biết, linh hồn của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép biện chứng duy vật, là quan điểm phát triển…, chứ không phải “đứng yên”, “chết cứng” như “Nguyễn Ngọc Già” xuyên tạc. C.Mác đã chỉ rõ: Học thuyết của chúng tôi không phải là một giáo điều mà là kim chỉ nam cho cuộc sống. V.I. Lênin đã nhiều lần nhắc nhở các Đảng Cộng sản phải biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào thực tiễn của dân tộc mình. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam và đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong đấu tranh cách mạng và trong thực hiện đường lối đổi mới. Cương lĩnh 2011 của Đảng có rất nhiều điểm mới, như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội…

Trong các Nghị quyết, Chỉ thị, Đảng ta cũng đã xác định rõ: Thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với thực tiễn; Lựa chọn, giới thiệu nhân sự cấp ủy khóa mới không để lọt những người bản lĩnh chính trị không vững vàng; phẩm chất, năng lực, uy tín giảm sút; thiếu gương mẫu, mất đoàn kết, cục bộ, bè phái, cơ hội, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ… Do vậy, ở các kỳ Đại hội, đặc biệt là Đại hội XIII của Đảng, công tác nhân sự được tiến hành bài bản, chặt chẽ, các Ủy viên Trung ương tái cử và tham gia lần đầu được thực hiện theo quy trình 5 bước; nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy viên Trung ương trường hợp đặc biệt tái cử được thực hiện qua hai vòng và tám bước, đã sàng lọc, lựa chọn được những đồng chí đủ tiêu chuẩn, đảm bảo tốt về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, sở trường công tác và triển vọng phát triển.

Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, Hội nghị Trung ương 8, khóa XIII của Đảng đã tiến hành Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương khóa XIV làm cơ sở để đào tạo, bồi dưỡng và giám sát cán bộ, nhằm lựa chọn được đội ngũ cán bộ cấp cao của Đảng có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ thời kỳ mới. Với bề dày kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng hơn 93 năm qua và kinh nghiệm phong phú qua tổ chức 13 kỳ đại hội, chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, chắc chắn Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIII sẽ lãnh đạo, chỉ đạo các tiểu ban của đại hội, chuẩn bị kỹ lưỡng, bài bản, chu đáo, trình Đại hội XIV của Đảng xem xét, quyết định các văn kiện và nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV; lựa chọn được cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bao gồm những người ưu tú nhất, có đủ “đức” và “tài” lãnh đạo đất nước ta phát triển nhanh và bền vững, sánh vai các cường quốc Năm Châu.

Từ nay đến Đại hội XIV của Đảng, các thế lực thù địch, phản động sẽ đẩy mạnh các hoạt động xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ, chống phá đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược của Đảng, phá hoại công tác nhân sự Đại hội XIV của Đảng, gây hoang mang trong dư luận xã hội. Mục đích thâm độc và xảo quyệt của chúng là làm giảm sút uy tín, phá hoại công tác nhân sự, phá hoại Đại hội XIV của Đảng. Chính vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam cần đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đoàn kết một lòng, nhận diện chính xác bộ mặt xấu xa của các phần tử phản động, kiên quyết đấu tranh bác bỏ những thông tin xấu độc của các thế lực thù địch, phản động như “Nguyễn Ngọc Già”, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng./.

Nhân văn Việt

 Khi đồng bào ta phấn khởi, chung vui Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc thì cũng là lúc các tổ chức, cá nhân phản động lưu vong ở nước ngoài, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị giở trò xuyên tạc, chống phá nhằm phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước ta.



Ảnh minh họa: Internet

Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc (18/11) hằng năm đã trở thành nét đẹp văn hóa, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống nhân dân vì đây không chỉ là dịp gặp gỡ, giao lưu, đánh giá kết quả thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” mà còn là diễn đàn, đợt sinh hoạt chính trị dân chủ, tập hợp và phát huy sức mạnh của các tổ chức, cá nhân, đoàn kết cùng nhau xây dựng khu dân cư ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Khi đồng bào ta phấn khởi, chung vui Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc thì cũng là lúc các tổ chức, cá nhân phản động lưu vong ở nước ngoài, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị giở trò xuyên tạc, chống phá nhằm phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước ta.

Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo

Chúng ta nhận thấy, vỏ bọc che đậy các hành vi xuyên tạc, vu cáo, thông tin sai sự thật trên không gian mạng hiện nay của các thế lực thù địch, phản động là các chiêu bài "nhân quyền", "dân chủ", "tự do", nhất là tự do tín ngưỡng, tôn giáo; tự do ngôn luận, báo chí; xuyên tạc những vấn đề do lịch sử để lại, những khó khăn trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc; thổi phồng thiếu sót trong việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế, xã hội ở miền núi, trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ở các địa phương.

Các thế lực thù địch triệt để tận dụng hoặc tạo ra, khai thác mọi khe hở có thể đế thực hiện thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam về vấn đề dân tộc trên chính địa bàn các dân tộc thiểu số đang sinh sống nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến tới gây bạo loạn, ly khai.

Hoạt động chủ yếu là phát tài liệu bịa đặt, dựng cảnh người dân ăn mặc rách rưới, nhem nhuốc rồi chụp ảnh, quay video trên không gian mạng để rêu rao, tạo dư luận xấu về Đảng, Nhà nước Việt Nam. Địa bàn nhắm tới là các buôn, làng vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh lợi dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”, “tự do tôn giáo, dân tộc”, các thế lực thù địch thường triệt để lợi dụng các vụ việc để chống phá chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Bên cạnh đó, được sự hỗ trợ, tiếp sức bởi các thế lực thù địch và các tổ chức quốc tế có hành vi chống phá Việt Nam như: Tổ chức Theo dõi nhân quyền – HRW, Ân xá quốc tế - AI, Đài Phát thanh Á châu tự do - RFA…

Các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng chống đối ở trong nước gia tăng kích động biểu tình, tạo điểm nóng chính trị để gây sự chú ý của dư luận thế giới. Đáng chú ý, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài đều tận dụng triệt để mạng xã hội để đẩy mạnh tuyên truyền, kích động chống phá. Không chỉ kích động tư tưởng ly khai, tự trị riêng cho dân tộc mình tại vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, các thế lực thù địch còn triệt để lợi dụng các vụ việc nổi cộm như vụ Đồng Tâm ở TP Hà Nội, vụ Thủ Thiêm ở TP Hồ Chí Minh nhằm gây bất ổn từ bên trong, gây hiểu nhầm đối với dư luận thế giới để kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Những chiêu trò chống phá chính sách đại đoàn kết dân tộc trên không gian mạng không có gì mới nhưng luôn được thế lực thù địch triệt để lợi dụng, xáo đi xáo lại nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau.

Thủ đoạn, mưu mô rất nguy hiểm, biểu hiện ở chỗ số đối tượng phản động, cơ hội chính trị thường lựa chọn thời điểm nước ta tổ chức các sự kiện trọng đại, kỷ niệm các ngày lễ lớn như kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9; Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4) hay Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc (18/11)… nhằm xuyên tạc vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc ở Việt Nam. Tìm cách vu cáo Đảng và Nhà nước, tạo ra những nhận thức sai lệch để các chính phủ, các tổ chức quốc tế can thiệp, gây sức ép, tạo điều kiện cho các đối tượng trong nước gia tăng hoạt động chống phá.

Củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc có ý nghĩa chiến lược và là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Người đã nêu ra luận điểm có tính chân lý: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”.

Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài; thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc trên cơ sở lấy mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là quan điểm nhất quán của Đảng ta trong vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc. Các dân tộc có dân số dù ít hay nhiều, ở trình độ phát triển cao hay thấp đều bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Hiến pháp 2013 quy định: “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc” (Điều 5 - Hiến pháp 2013, tr.13); “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14 – Hiến pháp 2013, tr.17).

Theo đó, Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) của Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng như: Nghị quyết số 23-NQ/TW “Về phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Nghị quyết số 24-NQ/TW “Về công tác dân tộc”; Nghị quyết số 36-NQ/TW (2004) của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”; Chỉ thị 45-CT/TW về tăng cường công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài của Bộ Chính trị (2015).

Đại hội XIII của Đảng khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận và đoàn thể nhân dân, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư; tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa nhân dân với Đảng và chính quyền, tăng cường đồng thuận xã hội, tạo thành sức mạnh to lớn, bảo vệ và xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Điều 11, Luật Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam quy định: “Ngày 18 tháng 11 hằng năm là Ngày truyền thống của MTTQ Việt Nam và là Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc”. Từ đó đến nay, hằng năm, việc tổ chức “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc” đã trở thành sinh hoạt xã hội rộng rãi ở từng cộng đồng dân cư trong cả nước.

Trong những năm qua, Ngày hội Đại đoàn kết dân tộc diễn ra trong cả nước đã thực sự trở thành ngày hội của toàn dân nhằm tôn vinh những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vào dịp này, tinh thần đoàn kết, gắn bó, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn càng được phát huy, góp phần thực hiện tốt các phong trào “Xây dựng gia đình văn hóa”, “Xây dựng văn hóa ở khu dân cư”, xây dựng các gia đình điển hình có “Ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”…, đấu tranh với các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, xóa dần những tệ nạn trong xã hội…

Thông qua ngày hội, nhiều khu dân cư đã sáng tạo ra các hình thức thi đua giữa các xóm, tổ dân phố, tổ nhân dân, thực hiện các công trình dân sinh trên địa bàn, giải quyết việc làm, thành lập các tổ giúp đỡ nhau trong sản xuất hay xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ các hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, chăm sóc người già yếu, neo đơn… Ngày hội cũng đã tạo điều kiện cho việc phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân, giúp cấp ủy đảng và chính quyền các cấp lắng nghe nguyện vọng, những phản ánh của nhân dân trong cuộc sống…

Kết quả thực tiễn của ngày hội mang giá trị là động lực về tinh thần trong nhân dân, từng bước được hiện thực hóa bằng các hành động cụ thể trên tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội tại mỗi địa phương, góp phần vào kết quả chung trong xây dựng và phát triển của đất nước; đồng thời là minh chứng sinh động phản bác luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch./.

Liêm Chính - Bình Nguyên, Nguồn: CAND

 Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho biết đã có quyết định về việc điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân tăng thêm 4,5% từ hôm nay (9/11). Theo đó, giá điện bán lẻ bình quân tăng thêm hơn 86,4168 đồng/kWh, từ 1.920,3732 đồng/kWh lên 2.006,79 đồng/kWh, chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.

Với lần tăng giá điện này, cộng với mức tăng giá hơn 55,9 đồng/kWh (tăng 3%) của ngày 4/5/2023, giá điện bán lẻ đã tăng thêm hơn 142,35 đồng/kWh từ đầu năm.

Theo ông Nguyễn Quốc Dũng – Trưởng ban Kinh doanh EVN, mức giá bán lẻ điện mới áp dụng cho các ngành sản xuất cũng có sự điều chỉnh. Cụ thể, giá bán lẻ điện cho cấp điện áp 11kV giờ bình thường là 1.649 đồng/kWh. Mức giá áp dụng cho giờ thấp điểm là 1.044 đồng/kWh, giá cho giờ cao điểm 2.973 đồng/kWh. Giá bán lẻ điện cho kinh doanh áp dụng cho cấp điện áp 22kV trở lên giờ bình thường là 2.830 đồng/kWh. Mức giá giờ thấp điểm và cao điểm áp dụng lần lượt 1.666 đồng/kWh và 4.736 đồng/kWh.

Theo quyết định này, mức giá bán lẻ điện sinh hoạt áp dụng cho 6 bậc cũng thay đổi. Cụ thể: Bậc 1, cho kWh từ 0 – 50: 1.806 đồng/kWh; Bậc 2, cho kWh từ 51 – 100: 1.866 đồng/kWh; Bậc 3, cho kWh từ 101 – 200: 2.167 đồng/kWh; Bậc 4, cho kWh từ 201 – 300: 2.729 đồng/kWh; Bậc 5, cho kWh từ 301 – 400: 3.050 đồng/kWh; Bậc 6, cho kWh từ 401 trở lên: 3.151 đồng/kWh.

Trong báo cáo gửi Thủ tướng và các bộ ngành mới đây, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, chi phí sản xuất điện tính đến tháng 10 tiếp tục biến động mạnh do chi phí đầu vào đang gia tăng rất mạnh, ảnh hưởng đến hoạt động của tập đoàn.

Theo EVN, ước tính cả năm nay, sản lượng phát thực tế của thủy điện giảm khoảng 13,9 tỷ kWh, nhiệt điện than tăng khoảng 9,3 tỷ kWh, nhiệt điện dầu tăng khoảng 1,2 tỷ kWh và năng lượng tái tạo tăng 1,3 tỷ kWh. Nếu so sánh với thực tế đã thực hiện năm 2022, sản lượng thủy điện giảm 22,5 tỷ kWh, nhiệt điện than tăng 28,2 tỷ kWh, nhiệt điện dầu tăng 1,2 tỷ kWh và năng lượng tái tạo tăng 2,8 tỷ kWh.

Việc giá than , giá khí liên tục giữ ở mức cao trong khi sản lượng phát thực tế của thuỷ điện suy giảm và lượng điện phát của các nhà máy điện năng lượng tái tạo gia tăng càng khiến giá thành sản xuất điện tăng mạnh.

“Tỷ giá ngoại tệ cũng tăng mạnh, bình quân năm 2023 dự kiến tăng 4% so với năm 2021. Các nhà máy nhiệt điện than và khí năm nay chiếm tỷ trọng sản lượng điện phát lên tới 55% tổng sản lượng điện phát toàn hệ thống nên giá nhiên liệu tăng cao, làm cho giá thành các nguồn nhiệt điện than và tua bin khí tăng rất cao”, EVN cho hay.

Tháng 8 vừa qua, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp có báo cáo gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của các doanh nghiệp do cơ quan này làm đại diện chủ sở hữu. Theo báo cáo, số lỗ 6 tháng đầu năm của EVN là hơn 35.400 tỷ đồng, còn tính đến hết 8 tháng, số lỗ của EVN dự kiến lên tới hơn 28.700 tỷ đồng.

Như vậy, nếu tính chung số l ỗ 26.500 tỷ đồng của năm 2022 (chưa bao gồm các khoản chênh lệch tỷ giá) và 8 tháng của năm 2023, công ty mẹ EVN lỗ tổng cộng trên 55.000 tỷ đồng.

Ngày 4/5/2023, Tập đoàn Điện lực Việt Nam thông báo chính thức tăng giá điện bán lẻ bình quân thêm 3% so với giá hiện hành. Theo quyết định này, giá điện bán lẻ điện bình quân tăng thêm hơn 55,9 đồng, lên 1.920,3732 đồng/kWh, chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.

Trước đó, ngày 31/3/2023, Bộ Công Thương đã công bố kết quả kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2021 và 2022 của EVN theo quy định tại Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg. Kết quả kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2021 và năm 2022 của EVN cho thấy giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2022 là 2.032,26 đồng/kWh, tăng 9,27% so với năm 2021.

 

Cách mạng Tháng Mười năm 1917 là chiến thắng vĩ đại của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, đánh dấu sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học từ lý tưởng trở thành hiện thực, đồng thời mở ra thời đại mới trong lịch sử nhân loại – thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Mười đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, soi sáng con đường phát triển, tiến lên xây dựng CNXH. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười khẳng định bản chất khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, cung cấp những bài học lịch sử vô giá cho các cuộc cách mạng vì độc lập dân tộc và CNXH, trong đó có  bài học về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Lênin là người lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười và lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thành công trong những năm đầu của chính quyền Xô-viết. Ông đã có nhiều cống hiến to lớn trong bảo vệ và phát triển lý luận về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ngay sau khi nước Cộng hòa Xô-viết, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử nhân loại ra đời, Lênin đã khẳng định, cùng với việc bắt đầu bảo vệ chủ nghĩa xã hội chúng ta phải bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Người cũng chỉ ra tính chất chính nghĩa, tính chất cách mạng, tính chất toàn dân, tính chất quốc tế của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và xác định những vấn đề chiến lược về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, vào những năm cuối thế kỷ XX, đặc biệt là từ năm 1985 đến 1991, những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô đã phản bội lý tưởng của Cách mạng tháng Mười, xa rời học thuyết Mác – Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về chiến lược, nhất là xóa bỏ vai trò lãnh đạo và làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô, làm biến dạng hệ thống giá trị và chuẩn mực xã hội theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, làm cho quân đội bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. Đó là một trong những nguyên nhân rất quan trọng dẫn đến sự sụp đổ và tan rã của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết vào năm 1991.

Sau Cách mạng tháng Mười, từ năm 1930, cách mạng ở Việt Nam đã trở thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới. Trên cơ sở phân tích những con đường mà các bậc tiền bối đã tìm kiếm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến phương Tây nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới để tìm ra con đường cứu nước cho Việt Nam. Tính chất “không đến nơi” của các cuộc cách mạng Pháp, Mỹ không thể giành độc lập, tự do thực sự cho dân tộc và giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi “kiếp ngựa trâu”. Tính chất “đến nơi” của Cách mạng tháng Mười đã đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến quyết định lịch sử: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là sự khẳng định: Dân tộc Việt Nam tất yếu phải đi theo con đường Cách mạng tháng Mười, độc lập dân tộc phải nhất thiết gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Đi theo ngọn cờ của Cách mạng tháng Mười, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực. Những thành tựu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta qua hơn 37 năm đổi mới, mọi người dân Việt Nam đều cảm nhận rõ ràng và được thụ hưởng thực sự trong cuộc sống, được bạn bè thế giới ngưỡng mộ và tin tưởng Việt Nam sẽ trở thành “một quốc gia phồn thịnh” trong tương lai. Mục tiêu giải phóng con người thoát khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc thực sự cho nhân dân mà Cách mạng tháng Mười đã vạch ra là hiện thực, là con đường thực tiễn ở Việt Nam và phù hợp quy luật phát triển của nhân loại.

Trong giai đoạn hiện nay, để tiếp tục phát triển đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trong thời gian tới, thì trước hết chúng ta phải kiên định mục tiêu theo con đường mà Cách mạng tháng Mười đã vạch ra. Chỉ có đi theo con đường cách mạng dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, của Cách mạng tháng Mười, thì dân tộc Việt Nam mới tiếp tục phát triển lên tầm cao mới. Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ trung tâm là xây dựng và phát triển kinh tế, chúng ta phải thực hiện thật tốt nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên, ra sức củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng quân đội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Phải “Nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học của ông cha ta: “Dựng nước đi đôi với giữ nước”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy”; có kế sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”. Phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải ra sức xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ trong giai đoạn lịch sử mới./.

Nhân văn Việt

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.