Ba tháng sau chuyến thăm của tổng thống Mỹ Joe Biden tới Việt Nam và hai nước nâng cấp quan hệ ngoại giao lên mức cao nhất là đối tác chiến lược toàn diện, chuyến thăm Việt Nam của Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình diễn ra từ 12-13/12/2023 đang thu hút sự quan tâm theo dõi đặc biệt của dư luận trong nước và quốc tế.


Trong bối cảnh tình hình thế giới đang có những biến động nhanh chóng, phức tạp, cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đang ngày càng quyết liệt, việc các cường quốc Mỹ, Trung Quốc vừa điều chỉnh chính sách của mình, vừa tìm cách lôi kéo các nước đang phát triển vào vòng ảnh hưởng của họ nhằm mục đích giành lợi thế là điều dễ hiểu. Việt Nam, một quốc gia có vị trí địa chính trị quan trọng, một ngôi sao đang lên của khu vực với uy tín và vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế, đang nằm trong những toan tính chiến lược của các cường quốc.

Các thế lực xấu tất nhiên không bỏ lỡ cơ hội chọc ngoáy, chống phá Việt Nam nhân chuyến thăm lần này của ông Tập Cận Bình. Bên cạnh những luận điệu xuyên tạc quen thuộc như: “Việt Nam theo Mỹ sẽ mất Đảng, theo Trung Quốc sẽ mất nước”, “Trung Quốc đang dần lấy hết biển, đảo của Việt Nam”, “Chính sách làm bạn với tất cả các nước của Việt Nam chẳng giúp Việt Nam bảo vệ được Biển Đông trước anh bạn phương Bắc đâu”, “Việt Nam không thể cứ lựa chọn cách cân bằng quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc để hưởng lợi như hiện nay, mà sớm muộn cũng phải chọn bên”…, lần này xuất hiện thêm những thông tin, luận điệu xuyên tạc về một chủ đề khá mới và nhạy cảm liên quan đến khái niệm “cộng đồng chung vận mệnh” (hay nói theo cách mà ông Tập Cận Bình thường dùng gần đây là “cộng đồng chia sẻ tương lai”) do phía Trung Quốc khởi xướng. Trên các nền tảng MXH xuất hiện không ít bài viết, bình luận trái chiều về vấn đề này, đại loại như: “Việt Nam và Trung Quốc chẳng có vận mệnh chung gì hết”, “Cái bẫy của Tập Cận Bình đây mà”, “Việt Nam khó mà thoát khỏi vòng kim cô của Trung Quốc”, “Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc”, “Xưa nay trên thế giới chưa có hai quốc gia nào mà tuyên bố có chung vận mệnh với nhau cả. Nếu có thì đó chỉ là sự lừa bịp”, “Chỉ có ĐCS Việt Nam mới có nhu cầu chung vận mệnh, còn nhân dân thì nói không với kẻ suốt ngày chỉ lăm le cướp biển đảo của Việt Nam”, “Đây chỉ là lối nói xảo ngôn của Tàu Cộng. Chớ nên tin”…

Mục đích của các thế lực chống phá là bôi nhọ quan hệ Việt – Trung, xuyên tạc đường lối đối ngoại, chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước Việt Nam là lệ thuộc, bị chi phối bởi các cường quốc, từ đó gây nghi ngờ, hoang mang, dao động, gây chia rẽ từ bên trong, ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh và quan hệ của Việt Nam với các nước, nhất là các nước đối tác, đối tác chiến lược, khiến dư luận trong và ngoài nước hiểu sai lệch về Việt Nam.

Khái niệm “cộng đồng chung vận mệnh” được ông Tập Cận Bình nêu ra cách đây khoảng 10 năm, được Trung Quốc quảng bá như “một loại hình quan hệ quốc tế mới với sự tôn trọng lẫn nhau, công bằng, chính đáng và hợp tác cùng có lợi”. Trong bài viết của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gửi đăng trên báo Nhân Dân của Việt Nam ngay trước khi chuyến thăm diễn ra, khái niệm này đã nhiều lần được đề cập đến.

Tại cuộc hội đàm diễn ra chiều ngày 12/12/2023 giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, hai bên đã nhất trí xây dựng “Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam – Trung Quốc” có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại, phù hợp với Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, kiên trì giải quyết bất đồng thông qua biện pháp hòa bình.

Trong phát biểu của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh Việt Nam coi phát triển quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu và là sự lựa chọn chiến lược, đồng thời cũng khẳng định đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại cũng như đường lối quốc phòng “4 không”.

Với lời khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam chắc chắn sẽ xem xét, nghiên cứu và trao đổi với phía Trung Quốc về những nội hàm cụ thể của “Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam – Trung Quốc” để vừa phát triển quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, vừa bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia dựa trên Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế.

Trong thời gian tới, chắc chắn các thế lực thù địch, bất mãn, cơ hội chính trị sẽ tiếp tục thông tin xuyên tạc về các vấn đề liên quan đến “cộng đồng chung vận mệnh”, “cộng đồng chia sẻ tương lai” để chống phá Việt Nam. Vì vậy, những người sử dụng MXH cần phải cảnh giác trước những âm mưu của các thế lực xấu, thường xuyên nâng cao hiểu biết và ý thức trách nhiệm khi sử dụng MXH, không chia sẻ thông tin có nội dung xuyên tạc, đi ngược lại quan điểm, chính sách đối ngoại của Ðảng và Nhà nước cũng như lợi ích dân tộc, lợi ích đất nước./.

Nguồn: ivanlevanlan

 Thời gian qua, lợi dụng những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thông qua nhiều âm mưu nham hiểm nhằm xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.


Sự nham hiểm của những luận điệu xuyên tạc

Biển là không gian chiến lược mở, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đường lối, chiến lược và tương lai phát triển của đất nước. Biển Đông là “bản lề” nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, là nơi hội tụ lợi ích chiến lược và thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực, nhất là các nước lớn. Về mặt tiềm năng phát triển, Biển Đông có nhiều lợi thế. Nơi đây đã và đang trở thành tâm điểm của sự cạnh tranh lợi ích, quyền lực và tầm ảnh hưởng của các nước lớn, được các chuyên gia quân sự ví như vùng “chảo lửa” trên bàn cờ chính trị của khu vực với nhiều diễn biến phức tạp, nhạy cảm.

Lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị khai thác triệt để, biến tấu thành nhiều bài viết, hình ảnh, video nhằm bịa đặt tình hình, bóp méo sự thật, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta trong công tác quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo; lợi dụng các trang mạng xã hội để lan truyền, tán phát thông tin, gây tâm lý hoang mang, bất ổn, chia rẽ đoàn kết trong nước và quốc tế.

Với những nội dung xuyên tạc xảo trá, họ thường lặp đi lặp lại luận điệu cũ rích rằng: “Cộng sản Việt Nam làm ngơ về vấn đề chủ quyền trên Biển Đông”; Đảng, Nhà nước Việt Nam im lặng vì đã thỏa hiệp với nước lớn, không cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình Biển Đông, không có giải pháp đủ mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo... Những thông tin xuyên tạc này ít nhiều đã tác động tiêu cực tới nhận thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin của một bộ phận nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.

Chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam

Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo. Quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là kiên quyết, kiên trì đấu tranh quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên các vùng biển, đảo quốc gia. Sinh thời, khi đến thăm cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.

Những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ phát triển mạnh kinh tế-xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9-2-2007 “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo”. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”. Tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.


Ngư dân lao động trên vùng biển Phú Yên. Ảnh: ĐÌNH HOÀNG

Như vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của biển, đảo là một bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng không thể tách rời, bất khả xâm phạm của Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc nói chung, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền, bảo đảm an ninh, an toàn và lợi ích quốc gia-dân tộc trên các vùng biển, đảo nói riêng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quá trình hoạch định và triển khai thực hiện đường lối bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại và tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để phát triển kinh tế biển gắn với quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia.

Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia bằng biện pháp hòa bình

Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, trong đó chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, về biện pháp tiến hành, cần phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo, linh hoạt, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong các tình huống cụ thể với mục tiêu cao nhất là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc. Quan điểm, lập trường của Việt Nam về vấn đề Biển Đông, về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quốc gia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là rất rõ ràng và hoàn toàn có đầy đủ cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn.

Với những vấn đề còn tồn tại bất đồng, tranh chấp, Việt Nam nhất quán giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế. Là một quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã tham gia ký kết UNCLOS 1982, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp và nguyên tắc quan hệ quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và vì hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực, quốc tế.

Trên thực tế, trong những thời điểm mà quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên Biển Đông bị đe dọa, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình trên các diễn đàn quốc tế, khu vực thông qua các cuộc gặp gỡ, trao đổi đoàn các cấp trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao; chủ động kiềm chế, không có các hành động khiêu khích, không làm phức tạp tình hình; thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và thể hiện thiện chí để sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Xây dựng hệ thống các biện pháp hòa bình để giải quyết bất đồng, tranh chấp với các bên, các nước có liên quan, như biện pháp ngoại giao (đàm phán hòa bình; thương lượng; điều tra; trung gian hòa giải; sử dụng các tổ chức quốc tế, khu vực; ký kết các hiệp định song phương, đa phương...).

Trên tinh thần đó, Việt Nam luôn nỗ lực cao nhất để xử lý các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn trên biển; duy trì quan hệ hữu nghị với các bên, các nước. Kiên trì mục tiêu không để nước ngoài lấn chiếm nhưng cũng không để xảy ra xung đột; kiên trì tìm kiếm giải pháp lâu dài và yêu cầu các bên liên quan không có những hành động quá khích, cực đoan, làm phức tạp thêm tình hình, tuân thủ các cam kết đã ký kết, giải quyết mọi bất đồng trên cơ sở thượng tôn luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 và nguyên tắc chung sống hòa bình. Coi trọng thúc đẩy xây dựng lòng tin chiến lược với các đối tác; đẩy mạnh hợp tác đa phương trên các lĩnh vực bảo đảm an ninh, nghiên cứu khoa học-công nghệ, phòng, chống tội phạm trên biển... để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Một mặt, Việt Nam không tạo phe, không kết nhóm, không chọn bên, không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam nhằm tấn công các nước khác, không đi theo nước này để chống lại nước kia, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Mặt khác, chúng ta cũng không mơ hồ, mất cảnh giác, né tránh, nhân nhượng vô nguyên tắc, không thụ động, không dựa dẫm, không trông chờ ỷ lại; không mắc mưu lôi kéo, kích động, khiêu khích của bất cứ thế lực nào; chỉ chọn theo chân lý, đứng về lẽ phải, dựa trên luật pháp quốc tế vì mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển.

Nhằm quán triệt và thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, thực hiện phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trên tinh thần “thêm bạn, bớt thù”, tranh thủ tối đa sự đồng thuận, ủng hộ của các bên liên quan cùng các nước trong khu vực và trên thế giới để hạn chế những bất đồng, khắc phục sự khác biệt, triệt để khai thác các nhân tố có lợi từ bên ngoài tạo thành sức mạnh tổng hợp.

Tập trung giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục; xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển (hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, kiểm ngư, dân quân tự vệ biển) vững mạnh; xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng chính trị-tinh thần vững chắc.

Tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý, bảo vệ biển, đảo phù hợp với luật pháp quốc tế. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an ninh; tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại quốc phòng về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.

Những quan điểm nêu trên là đường lối chính trị, căn cứ pháp lý để xây dựng sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin trong nước, quốc tế, tạo thành nền tảng và sức mạnh tổng hợp quốc gia; đồng thời là cơ sở để đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; để dư luận quốc tế hiểu rõ về lập trường, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia trong tình hình hiện nay./.

Đại tá, ThS TRẦN ĐỨC TIẾNKhoa Lịch sử nghệ thuật quân sự, Học viện Chính trị - Nguồn: QĐND

 Ngày 04/11 vừa qua, Đài RFA phát tán tài liệu “Người Thượng ở Mỹ biểu tình phản đối chính quyền Hà Nội đàn áp người sắc tộc ở Tây Nguyên” có nội dung khuếch trương việc hơn 100 người thuộc các sắc tộc Đề ga, Chăm và Khmer tập trung trước tòa nhà Quốc hội Mỹ để biểu tình, vu khống chính quyền Việt Nam “đàn áp” người dân bản địa tại Tây Nguyên. Thực chất đây là hành động của những “con rối” chính trị bị các thế lực xấu kích động, giật dây nhằm thu hút sự chú ý của dư luận, làm phức tạp tình hình; kích động, chia rẽ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định an ninh chính trị mà thôi.



Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh Kon Tum vui đón Tết cùng đồng bào

Bởi vì, Đảng, Nhà nước, Nhân dân Việt Nam luôn xác định khối đại đoàn kết toàn dân tộc là cội nguồn sức mạnh, là động lực để xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, giàu mạnh. Theo đó, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách xây dựng, không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đối với vùng Tây nguyên là vùng đất cao nguyên đa dạng về địa hình, vùng đất của nhiều dân tộc thiểu số (gồm 47 dân tộc cùng sinh sống). Những năm qua, vùng Tây Nguyên được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, đầu tư với nhiều chính sách nhằm tạo sự ổn định, phát triển bền vững và đạt được nhiều thành tựu quan trọng: kinh tế - xã hội nội vùng phát triển, việc liên kết vùng và hội nhập quốc tế có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và đồng bào các dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện. Tiềm lực quốc phòng, an ninh từng bước được tăng cường; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân”, góp phần chủ động phòng ngừa các nguy cơ đe dọa từ bên ngoài, giải quyết căn bản những vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tạo nền tảng vững chắc để phát triển kinh tế - xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, việc Đài RFA phát tán tài liệu cho rằng: chính quyền Hà Nội đàn áp người sắc tộc ở Tây Nguyên là hoàn toàn bịa đặt, vu khống, cần bác bỏ.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau từ đặc điểm địa hình, điều kiện tự nhiên, khí hậu, thời tiết, lối sống, phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số,… nên mặc dù đã được quan tâm đầu tư phát triển toàn diện song trình độ dân trí, đời sống của đồng bào các dân tộc nơi đây vẫn còn gặp khó khăn. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lôi kéo các phần tử phản động lưu vong ở nước ngoài liên kết, móc nối với những phần tử phản động, bất mãn ở trong nước “đội lốt” đấu tranh cho các vấn đề: “dân tộc”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo”,… để tuyên truyền, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; lôi kéo, xúi giục đồng bào dân tộc thiểu số tụ tập đông người, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, v.v. Thực tế cho thấy, cùng với lôi kéo, xúi giục tổ chức biểu tình, hội họp, kêu gọi đấu tranh, vu khống Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền,… ở nước ngoài, các thế lực xấu còn móc nối, tổ chức nhiều hoạt động chống phá ở trong nước, như: đòi thành lập cái gọi là Nhà nước Đề ga tự trị; tổ chức sinh hoạt tôn giáo, truyền đạo trái pháp luật; kích động, tổ chức hoạt động khủng bố,… mà điển hình là vụ tấn công vào trụ sở Ủy ban nhân dân xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk ngày 11/6/2023.

Rồi đây, hành động của những “con rối” chính trị khi tiếp tay hoặc trực tiếp thực hiện những hành động chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ phải trả giá, chịu sự trừng phạt nghiêm minh của pháp luật. Vì thế, những ai còn đang mơ hồ, ảo tưởng, trông chờ, hi vọng vào sự tài trợ, hà hơi, tiếp sức của các thế lực xấu để đổi đời cần sớm tỉnh ngộ, quay đầu là bờ khi chưa quá muộn./.

Tre Việt

 

Hội nghị Trung ương 8, khóa XIII của Đảng đã tiến hành quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV, một nhiệm vụ rất quan trọng không chỉ ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của đất nước trong nhiệm kỳ tới mà cả những năm tiếp theo.

Ấy vậy mà, trên trang “Thongluan-rdp”, kẻ tự xưng “Nguyễn Ngọc Già” phát tán nhiều thông tin xấu độc xuyên tạc nền tảng tư tưởng và công tác nhân sự Đại hôi XIV của Đảng. Nguyễn Ngọc Già xuyên tạc rằng, “Đảng ta trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong khi chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã phạm vào tính vận động, hoàn toàn đứng yên, một dạng chết cứng về tư tưởng, vì thế tư tưởng của toàn bộ các đảng viên cao cấp nhất đều đứng yên rồi”; “Y” còn cố tình bịa đặt rằng, “Vấn đề lựa chọn nhân sự qua các kỳ đại hội đảng không tạo ra bất kỳ yếu tố mới nào …vì trung thành với chủ nghĩa Mác – Lê nin…”. Đây là những luận điệu sai trái của phần tử phản động, cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác – lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng ta về công tác cán bộ. Mục đích thâm độc của chúng là phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam cần đề cao cảnh giác để không bị mắc mưu của kẻ xấu.

Như chúng ta đã biết, linh hồn của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép biện chứng duy vật, là quan điểm phát triển…, chứ không phải “đứng yên”, “chết cứng” như “Nguyễn Ngọc Già” xuyên tạc. C.Mác đã chỉ rõ: Học thuyết của chúng tôi không phải là một giáo điều mà là kim chỉ nam cho cuộc sống. V.I. Lênin đã nhiều lần nhắc nhở các Đảng Cộng sản phải biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào thực tiễn của dân tộc mình. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam và đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong đấu tranh cách mạng và trong thực hiện đường lối đổi mới. Cương lĩnh 2011 của Đảng có rất nhiều điểm mới, như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội…

Trong các Nghị quyết, Chỉ thị, Đảng ta cũng đã xác định rõ: Thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với thực tiễn; Lựa chọn, giới thiệu nhân sự cấp ủy khóa mới không để lọt những người bản lĩnh chính trị không vững vàng; phẩm chất, năng lực, uy tín giảm sút; thiếu gương mẫu, mất đoàn kết, cục bộ, bè phái, cơ hội, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ… Do vậy, ở các kỳ Đại hội, đặc biệt là Đại hội XIII của Đảng, công tác nhân sự được tiến hành bài bản, chặt chẽ, các Ủy viên Trung ương tái cử và tham gia lần đầu được thực hiện theo quy trình 5 bước; nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy viên Trung ương trường hợp đặc biệt tái cử được thực hiện qua hai vòng và tám bước, đã sàng lọc, lựa chọn được những đồng chí đủ tiêu chuẩn, đảm bảo tốt về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, sở trường công tác và triển vọng phát triển.

Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, Hội nghị Trung ương 8, khóa XIII của Đảng đã tiến hành Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương khóa XIV làm cơ sở để đào tạo, bồi dưỡng và giám sát cán bộ, nhằm lựa chọn được đội ngũ cán bộ cấp cao của Đảng có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ thời kỳ mới. Với bề dày kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng hơn 93 năm qua và kinh nghiệm phong phú qua tổ chức 13 kỳ đại hội, chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, chắc chắn Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIII sẽ lãnh đạo, chỉ đạo các tiểu ban của đại hội, chuẩn bị kỹ lưỡng, bài bản, chu đáo, trình Đại hội XIV của Đảng xem xét, quyết định các văn kiện và nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV; lựa chọn được cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bao gồm những người ưu tú nhất, có đủ “đức” và “tài” lãnh đạo đất nước ta phát triển nhanh và bền vững, sánh vai các cường quốc Năm Châu.

Từ nay đến Đại hội XIV của Đảng, các thế lực thù địch, phản động sẽ đẩy mạnh các hoạt động xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ, chống phá đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược của Đảng, phá hoại công tác nhân sự Đại hội XIV của Đảng, gây hoang mang trong dư luận xã hội. Mục đích thâm độc và xảo quyệt của chúng là làm giảm sút uy tín, phá hoại công tác nhân sự, phá hoại Đại hội XIV của Đảng. Chính vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam cần đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đoàn kết một lòng, nhận diện chính xác bộ mặt xấu xa của các phần tử phản động, kiên quyết đấu tranh bác bỏ những thông tin xấu độc của các thế lực thù địch, phản động như “Nguyễn Ngọc Già”, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng./.

Nhân văn Việt

 Khi đồng bào ta phấn khởi, chung vui Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc thì cũng là lúc các tổ chức, cá nhân phản động lưu vong ở nước ngoài, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị giở trò xuyên tạc, chống phá nhằm phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước ta.



Ảnh minh họa: Internet

Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc (18/11) hằng năm đã trở thành nét đẹp văn hóa, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống nhân dân vì đây không chỉ là dịp gặp gỡ, giao lưu, đánh giá kết quả thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” mà còn là diễn đàn, đợt sinh hoạt chính trị dân chủ, tập hợp và phát huy sức mạnh của các tổ chức, cá nhân, đoàn kết cùng nhau xây dựng khu dân cư ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Khi đồng bào ta phấn khởi, chung vui Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc thì cũng là lúc các tổ chức, cá nhân phản động lưu vong ở nước ngoài, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị giở trò xuyên tạc, chống phá nhằm phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước ta.

Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo

Chúng ta nhận thấy, vỏ bọc che đậy các hành vi xuyên tạc, vu cáo, thông tin sai sự thật trên không gian mạng hiện nay của các thế lực thù địch, phản động là các chiêu bài "nhân quyền", "dân chủ", "tự do", nhất là tự do tín ngưỡng, tôn giáo; tự do ngôn luận, báo chí; xuyên tạc những vấn đề do lịch sử để lại, những khó khăn trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc; thổi phồng thiếu sót trong việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế, xã hội ở miền núi, trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ở các địa phương.

Các thế lực thù địch triệt để tận dụng hoặc tạo ra, khai thác mọi khe hở có thể đế thực hiện thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam về vấn đề dân tộc trên chính địa bàn các dân tộc thiểu số đang sinh sống nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến tới gây bạo loạn, ly khai.

Hoạt động chủ yếu là phát tài liệu bịa đặt, dựng cảnh người dân ăn mặc rách rưới, nhem nhuốc rồi chụp ảnh, quay video trên không gian mạng để rêu rao, tạo dư luận xấu về Đảng, Nhà nước Việt Nam. Địa bàn nhắm tới là các buôn, làng vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh lợi dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”, “tự do tôn giáo, dân tộc”, các thế lực thù địch thường triệt để lợi dụng các vụ việc để chống phá chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Bên cạnh đó, được sự hỗ trợ, tiếp sức bởi các thế lực thù địch và các tổ chức quốc tế có hành vi chống phá Việt Nam như: Tổ chức Theo dõi nhân quyền – HRW, Ân xá quốc tế - AI, Đài Phát thanh Á châu tự do - RFA…

Các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng chống đối ở trong nước gia tăng kích động biểu tình, tạo điểm nóng chính trị để gây sự chú ý của dư luận thế giới. Đáng chú ý, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài đều tận dụng triệt để mạng xã hội để đẩy mạnh tuyên truyền, kích động chống phá. Không chỉ kích động tư tưởng ly khai, tự trị riêng cho dân tộc mình tại vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, các thế lực thù địch còn triệt để lợi dụng các vụ việc nổi cộm như vụ Đồng Tâm ở TP Hà Nội, vụ Thủ Thiêm ở TP Hồ Chí Minh nhằm gây bất ổn từ bên trong, gây hiểu nhầm đối với dư luận thế giới để kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Những chiêu trò chống phá chính sách đại đoàn kết dân tộc trên không gian mạng không có gì mới nhưng luôn được thế lực thù địch triệt để lợi dụng, xáo đi xáo lại nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau.

Thủ đoạn, mưu mô rất nguy hiểm, biểu hiện ở chỗ số đối tượng phản động, cơ hội chính trị thường lựa chọn thời điểm nước ta tổ chức các sự kiện trọng đại, kỷ niệm các ngày lễ lớn như kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9; Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4) hay Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc (18/11)… nhằm xuyên tạc vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc ở Việt Nam. Tìm cách vu cáo Đảng và Nhà nước, tạo ra những nhận thức sai lệch để các chính phủ, các tổ chức quốc tế can thiệp, gây sức ép, tạo điều kiện cho các đối tượng trong nước gia tăng hoạt động chống phá.

Củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc có ý nghĩa chiến lược và là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Người đã nêu ra luận điểm có tính chân lý: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”.

Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài; thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc trên cơ sở lấy mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là quan điểm nhất quán của Đảng ta trong vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc. Các dân tộc có dân số dù ít hay nhiều, ở trình độ phát triển cao hay thấp đều bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Hiến pháp 2013 quy định: “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc” (Điều 5 - Hiến pháp 2013, tr.13); “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14 – Hiến pháp 2013, tr.17).

Theo đó, Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) của Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng như: Nghị quyết số 23-NQ/TW “Về phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Nghị quyết số 24-NQ/TW “Về công tác dân tộc”; Nghị quyết số 36-NQ/TW (2004) của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”; Chỉ thị 45-CT/TW về tăng cường công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài của Bộ Chính trị (2015).

Đại hội XIII của Đảng khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận và đoàn thể nhân dân, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư; tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa nhân dân với Đảng và chính quyền, tăng cường đồng thuận xã hội, tạo thành sức mạnh to lớn, bảo vệ và xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Điều 11, Luật Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam quy định: “Ngày 18 tháng 11 hằng năm là Ngày truyền thống của MTTQ Việt Nam và là Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc”. Từ đó đến nay, hằng năm, việc tổ chức “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc” đã trở thành sinh hoạt xã hội rộng rãi ở từng cộng đồng dân cư trong cả nước.

Trong những năm qua, Ngày hội Đại đoàn kết dân tộc diễn ra trong cả nước đã thực sự trở thành ngày hội của toàn dân nhằm tôn vinh những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vào dịp này, tinh thần đoàn kết, gắn bó, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn càng được phát huy, góp phần thực hiện tốt các phong trào “Xây dựng gia đình văn hóa”, “Xây dựng văn hóa ở khu dân cư”, xây dựng các gia đình điển hình có “Ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”…, đấu tranh với các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, xóa dần những tệ nạn trong xã hội…

Thông qua ngày hội, nhiều khu dân cư đã sáng tạo ra các hình thức thi đua giữa các xóm, tổ dân phố, tổ nhân dân, thực hiện các công trình dân sinh trên địa bàn, giải quyết việc làm, thành lập các tổ giúp đỡ nhau trong sản xuất hay xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ các hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, chăm sóc người già yếu, neo đơn… Ngày hội cũng đã tạo điều kiện cho việc phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân, giúp cấp ủy đảng và chính quyền các cấp lắng nghe nguyện vọng, những phản ánh của nhân dân trong cuộc sống…

Kết quả thực tiễn của ngày hội mang giá trị là động lực về tinh thần trong nhân dân, từng bước được hiện thực hóa bằng các hành động cụ thể trên tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội tại mỗi địa phương, góp phần vào kết quả chung trong xây dựng và phát triển của đất nước; đồng thời là minh chứng sinh động phản bác luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch./.

Liêm Chính - Bình Nguyên, Nguồn: CAND

 Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho biết đã có quyết định về việc điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân tăng thêm 4,5% từ hôm nay (9/11). Theo đó, giá điện bán lẻ bình quân tăng thêm hơn 86,4168 đồng/kWh, từ 1.920,3732 đồng/kWh lên 2.006,79 đồng/kWh, chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.

Với lần tăng giá điện này, cộng với mức tăng giá hơn 55,9 đồng/kWh (tăng 3%) của ngày 4/5/2023, giá điện bán lẻ đã tăng thêm hơn 142,35 đồng/kWh từ đầu năm.

Theo ông Nguyễn Quốc Dũng – Trưởng ban Kinh doanh EVN, mức giá bán lẻ điện mới áp dụng cho các ngành sản xuất cũng có sự điều chỉnh. Cụ thể, giá bán lẻ điện cho cấp điện áp 11kV giờ bình thường là 1.649 đồng/kWh. Mức giá áp dụng cho giờ thấp điểm là 1.044 đồng/kWh, giá cho giờ cao điểm 2.973 đồng/kWh. Giá bán lẻ điện cho kinh doanh áp dụng cho cấp điện áp 22kV trở lên giờ bình thường là 2.830 đồng/kWh. Mức giá giờ thấp điểm và cao điểm áp dụng lần lượt 1.666 đồng/kWh và 4.736 đồng/kWh.

Theo quyết định này, mức giá bán lẻ điện sinh hoạt áp dụng cho 6 bậc cũng thay đổi. Cụ thể: Bậc 1, cho kWh từ 0 – 50: 1.806 đồng/kWh; Bậc 2, cho kWh từ 51 – 100: 1.866 đồng/kWh; Bậc 3, cho kWh từ 101 – 200: 2.167 đồng/kWh; Bậc 4, cho kWh từ 201 – 300: 2.729 đồng/kWh; Bậc 5, cho kWh từ 301 – 400: 3.050 đồng/kWh; Bậc 6, cho kWh từ 401 trở lên: 3.151 đồng/kWh.

Trong báo cáo gửi Thủ tướng và các bộ ngành mới đây, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, chi phí sản xuất điện tính đến tháng 10 tiếp tục biến động mạnh do chi phí đầu vào đang gia tăng rất mạnh, ảnh hưởng đến hoạt động của tập đoàn.

Theo EVN, ước tính cả năm nay, sản lượng phát thực tế của thủy điện giảm khoảng 13,9 tỷ kWh, nhiệt điện than tăng khoảng 9,3 tỷ kWh, nhiệt điện dầu tăng khoảng 1,2 tỷ kWh và năng lượng tái tạo tăng 1,3 tỷ kWh. Nếu so sánh với thực tế đã thực hiện năm 2022, sản lượng thủy điện giảm 22,5 tỷ kWh, nhiệt điện than tăng 28,2 tỷ kWh, nhiệt điện dầu tăng 1,2 tỷ kWh và năng lượng tái tạo tăng 2,8 tỷ kWh.

Việc giá than , giá khí liên tục giữ ở mức cao trong khi sản lượng phát thực tế của thuỷ điện suy giảm và lượng điện phát của các nhà máy điện năng lượng tái tạo gia tăng càng khiến giá thành sản xuất điện tăng mạnh.

“Tỷ giá ngoại tệ cũng tăng mạnh, bình quân năm 2023 dự kiến tăng 4% so với năm 2021. Các nhà máy nhiệt điện than và khí năm nay chiếm tỷ trọng sản lượng điện phát lên tới 55% tổng sản lượng điện phát toàn hệ thống nên giá nhiên liệu tăng cao, làm cho giá thành các nguồn nhiệt điện than và tua bin khí tăng rất cao”, EVN cho hay.

Tháng 8 vừa qua, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp có báo cáo gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của các doanh nghiệp do cơ quan này làm đại diện chủ sở hữu. Theo báo cáo, số lỗ 6 tháng đầu năm của EVN là hơn 35.400 tỷ đồng, còn tính đến hết 8 tháng, số lỗ của EVN dự kiến lên tới hơn 28.700 tỷ đồng.

Như vậy, nếu tính chung số l ỗ 26.500 tỷ đồng của năm 2022 (chưa bao gồm các khoản chênh lệch tỷ giá) và 8 tháng của năm 2023, công ty mẹ EVN lỗ tổng cộng trên 55.000 tỷ đồng.

Ngày 4/5/2023, Tập đoàn Điện lực Việt Nam thông báo chính thức tăng giá điện bán lẻ bình quân thêm 3% so với giá hiện hành. Theo quyết định này, giá điện bán lẻ điện bình quân tăng thêm hơn 55,9 đồng, lên 1.920,3732 đồng/kWh, chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.

Trước đó, ngày 31/3/2023, Bộ Công Thương đã công bố kết quả kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2021 và 2022 của EVN theo quy định tại Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg. Kết quả kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2021 và năm 2022 của EVN cho thấy giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2022 là 2.032,26 đồng/kWh, tăng 9,27% so với năm 2021.

 

Cách mạng Tháng Mười năm 1917 là chiến thắng vĩ đại của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, đánh dấu sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học từ lý tưởng trở thành hiện thực, đồng thời mở ra thời đại mới trong lịch sử nhân loại – thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Mười đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, soi sáng con đường phát triển, tiến lên xây dựng CNXH. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười khẳng định bản chất khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, cung cấp những bài học lịch sử vô giá cho các cuộc cách mạng vì độc lập dân tộc và CNXH, trong đó có  bài học về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Lênin là người lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười và lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thành công trong những năm đầu của chính quyền Xô-viết. Ông đã có nhiều cống hiến to lớn trong bảo vệ và phát triển lý luận về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ngay sau khi nước Cộng hòa Xô-viết, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử nhân loại ra đời, Lênin đã khẳng định, cùng với việc bắt đầu bảo vệ chủ nghĩa xã hội chúng ta phải bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Người cũng chỉ ra tính chất chính nghĩa, tính chất cách mạng, tính chất toàn dân, tính chất quốc tế của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và xác định những vấn đề chiến lược về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, vào những năm cuối thế kỷ XX, đặc biệt là từ năm 1985 đến 1991, những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô đã phản bội lý tưởng của Cách mạng tháng Mười, xa rời học thuyết Mác – Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về chiến lược, nhất là xóa bỏ vai trò lãnh đạo và làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô, làm biến dạng hệ thống giá trị và chuẩn mực xã hội theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, làm cho quân đội bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. Đó là một trong những nguyên nhân rất quan trọng dẫn đến sự sụp đổ và tan rã của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết vào năm 1991.

Sau Cách mạng tháng Mười, từ năm 1930, cách mạng ở Việt Nam đã trở thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới. Trên cơ sở phân tích những con đường mà các bậc tiền bối đã tìm kiếm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến phương Tây nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới để tìm ra con đường cứu nước cho Việt Nam. Tính chất “không đến nơi” của các cuộc cách mạng Pháp, Mỹ không thể giành độc lập, tự do thực sự cho dân tộc và giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi “kiếp ngựa trâu”. Tính chất “đến nơi” của Cách mạng tháng Mười đã đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến quyết định lịch sử: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là sự khẳng định: Dân tộc Việt Nam tất yếu phải đi theo con đường Cách mạng tháng Mười, độc lập dân tộc phải nhất thiết gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Đi theo ngọn cờ của Cách mạng tháng Mười, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực. Những thành tựu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta qua hơn 37 năm đổi mới, mọi người dân Việt Nam đều cảm nhận rõ ràng và được thụ hưởng thực sự trong cuộc sống, được bạn bè thế giới ngưỡng mộ và tin tưởng Việt Nam sẽ trở thành “một quốc gia phồn thịnh” trong tương lai. Mục tiêu giải phóng con người thoát khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc thực sự cho nhân dân mà Cách mạng tháng Mười đã vạch ra là hiện thực, là con đường thực tiễn ở Việt Nam và phù hợp quy luật phát triển của nhân loại.

Trong giai đoạn hiện nay, để tiếp tục phát triển đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trong thời gian tới, thì trước hết chúng ta phải kiên định mục tiêu theo con đường mà Cách mạng tháng Mười đã vạch ra. Chỉ có đi theo con đường cách mạng dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, của Cách mạng tháng Mười, thì dân tộc Việt Nam mới tiếp tục phát triển lên tầm cao mới. Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ trung tâm là xây dựng và phát triển kinh tế, chúng ta phải thực hiện thật tốt nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên, ra sức củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng quân đội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Phải “Nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học của ông cha ta: “Dựng nước đi đôi với giữ nước”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy”; có kế sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”. Phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải ra sức xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ trong giai đoạn lịch sử mới./.

Nhân văn Việt

 Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một nội dung cơ bản, hệ trọng của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Để góp phần phản bác, đẩy lùi những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng là mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, đi đầu trong bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.


Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị khoá XII, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” (Nghị quyết số 35-NQ/TW) đã xác định bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là công việc tự giác, thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Quan điểm trên khẳng định vai trò quan trọng của cán bộ, đảng viên trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác, Ph. Ăng-ghen viết: “… về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”(1). Các ông cũng chỉ rõ: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”(2). Kế thừa, phát triển tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăng-ghen,  khi bàn về vai trò của Đảng, của đội ngũ đảng viên, V.I. Lê-nin đã khẳng định: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên!”(3). Tổ chức những người cách mạng, theo quan điểm của V.I. Lê-nin, là những người ưu tú nhất của giai cấp, được tôi luyện bằng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng bền bỉ, luôn đặt lợi ích của giai cấp và quần chúng lên trên hết, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích cao cả ấy.

Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc đánh giá đúng vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người nhấn mạnh: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(4). Chính vì vậy, Người đặt lên hàng đầu công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, trước hết là về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, trong đó có vai trò nêu gương. Bởi, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(5). Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, đề cập về vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân ta thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta”(6). Để được nhân dân tin yêu, quý trọng và xứng đáng là người lãnh đạo của nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực sự tiên phong, gương mẫu cả về phẩm chất, nhân cách, đạo đức, tri thức…, luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết, thực sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân, làm tròn bổn phận mà Đảng và nhân dân giao phó.


Cán bộ, chiến sĩ quân đội giúp nhân dân cứu lúa ở đồng bằng sông Cửu Long _Nguồn: tienphong.vn

Nghị quyết số 35-NQ/TW xác định, một trong những mục tiêu chủ yếu, căn cốt của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, tích cực tham gia xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, bảo đảm cho Đảng ta thực sự là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Niềm tin của nhân dân đối với Đảng không chỉ là nhân tố tạo ra nguồn lực, động lực của cách mạng, sức mạnh nội sinh to lớn của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn quyết định đến sự tồn vong của Đảng và chế độ. Niềm tin đó không chỉ xuất phát từ sự đúng đắn của đường lối, chủ trương, quyết sách của Đảng trên các lĩnh vực; từ bản lĩnh, trách nhiệm của Đảng trong nhận thức và sự nghiêm túc sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, mà còn xuất phát từ tư cách đạo đức, tính tiền phong, gương mẫu của hàng triệu cán bộ, đảng viên. Thực tiễn cách mạng nước ta qua các thời kỳ đã chứng minh, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, dù ở vào tình thế khó khăn, hiểm nguy nhất, nhưng nếu đội ngũ cán bộ, đảng viên phát huy tốt vai trò tiền phong, gương mẫu, không quản ngại gian khổ, hy sinh, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thì sức mạnh lãnh đạo của Đảng được bảo đảm, niềm tin của nhân dân đối với Đảng được nâng lên, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Tuy nhiên, bên cạnh những đảng viên mẫu mực, cán bộ kiên trung đã góp phần tô thắm truyền thống vẻ vang của Đảng, làm nên những thắng lợi to lớn của cách mạng, Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ ra hiện nay vẫn còn “một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá””(7). Thực trạng đó không chỉ gây bức xúc trong xã hội, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, mà còn làm suy yếu năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta, nếu không được ngăn chặn, khắc phục. Những năm qua, từ khi Đảng ta đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhiều vụ “đại án” đã được đưa ra xét xử. Trong nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, có hơn 1.000 tổ chức đảng và gần 52 nghìn đảng viên bị thi hành kỷ luật (tăng gấp 2 lần về số tổ chức đảng và hơn 1,5 lần về số đảng viên so với cùng kỳ của nhiệm kỳ trước)(8); 23 vụ án trọng điểm đã được đưa ra xét xử với 31 cán bộ Trung ương quản lý bị xử lý hình sự (9)… Thực trạng đó cho thấy sự suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những người giữ cương vị cao trong bộ máy Đảng, Nhà nước đã làm tổn hại đến danh dự và uy tín của Đảng, tạo ra những “mảnh đất” cho các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước ta, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự suy thoái dẫn đến “nhúng chàm” và vướng vào lao lý của không ít cán bộ, đảng viên thời gian qua chính là do không thường xuyên nêu gương, rèn luyện đạo đức cách mạng, tu dưỡng theo những chuẩn mực của người cán bộ, đảng viên và “do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa”(10).

Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đang đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, “nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(11). Để hiện thực hóa mục tiêu ấy, đòi hỏi phải nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hoá, con người Việt Nam. Một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm cho các nhiệm vụ, giải pháp trên đạt hiệu quả là phải phát huy tốt vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên trên tất cả các lĩnh vực, trong đó, “bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; … là công việc tự giác, thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp của từng địa phương, cơ quan, đơn vị của từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu”(12). Bởi, trong nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhân dân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của sự bảo vệ, là lực lượng to lớn, có vai trò quan trọng hàng đầu quyết định hiệu quả của nhiệm vụ này. Để dân hiểu, dân tin, dân theo; để nền tảng tư tưởng của Đảng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội thì điều có ý nghĩa quan trọng không chỉ là làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, mà còn phải thông qua những “tấm gương sáng”, sự nêu gương một cách tự giác, thường xuyên của cán bộ, đảng viên trong sinh hoạt, học tập, công tác. “Cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm chỉnh chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; gương mẫu thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư "Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp"; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị "Về một số việc cần làm ngay để tăng cường trách nhiệm nêu gương". Cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu nêu gương”(13).

Theo đó, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ, đảng viên trong trách nhiệm nêu gương để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Chất lượng, hiệu quả, mức độ chuyển biến trong việc nêu gương của cán bộ, đảng viên đối với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phụ thuộc trước hết vào nhận thức, trách nhiệm chính trị của từng cán bộ, đảng viên. Thực tiễn cho thấy, nơi nào mà cán bộ, đảng viên nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng của việc nêu gương thì vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên sẽ được phát huy tốt trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu trong tuyên truyền, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; chấp hành và thực hiện nghiêm túc Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước. Để tạo chuyển biến về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong việc nêu gương, cần quan tâm công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống chính trị về ý nghĩa, mối quan hệ của việc nêu gương của cán bộ, đảng viên với công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần những quan điểm, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về nêu gương để trên cơ sở đó thực hành đạt hiệu quả. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước hết phải từ nội bộ Đảng, thông qua những tấm gương sáng, người thật, việc thật trong hàng ngũ của Đảng để tạo sức thuyết phục và lan tỏa mạnh mẽ đến nhân dân.


Cán bộ Đồn Biên phòng Xuân Trường, Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng luôn gần gũi, gắn bó với đồng bào _Nguồn: bienphong.com.vn

Thứ hai, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp đối với việc nêu gương của cán bộ, đảng viên để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là ở cơ sở, phải nắm vững quan điểm, nguyên tắc, nội dung, giải pháp được nêu trong Nghị quyết số 35-NQ/TW; các quy định về nêu gương của cán bộ, đảng viên đã được xác định trong các nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng(14). Trên cơ sở đó, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng căn cứ vào tình hình, đặc điểm và thực trạng đội ngũ cán bộ, đảng viên của cơ quan, đơn vị mình để xác định phương hướng, mục tiêu, nội dung, biện pháp thực hiện cho phù hợp và triển khai thực hiện sâu rộng đến các tổ chức, các lực lượng. Chủ động, sáng tạo xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện theo từng nhóm đối tượng cụ thể. Kết hợp chặt chẽ giữa việc thực hiện các quy định về nêu gương với thực hiện Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. Trong quá trình thực hiện, cấp ủy các cấp phải thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, đánh giá đầy đủ thuận lợi, khó khăn và kết quả đạt được, linh hoạt chỉ đạo, đề xuất những nội dung, biện pháp mới theo sự phát triển của tình hình. Trong từng giai đoạn, cần lãnh đạo, chỉ đạo sơ, tổng kết rút kinh nghiệm nghiêm túc, kịp thời nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu.

Thứ ba, nêu cao vai trò, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng bằng những hành động thiết thực, việc làm cụ thể.

Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị là người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện thắng lợi các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Người đứng đầu phát huy tốt vai trò, trách nhiệm nêu gương sẽ tạo ra hiệu ứng to lớn trong việc tuyên truyền, động viên cán bộ, đảng viên, cấp dưới noi theo. Sự nêu gương của người đứng đầu chính là nhân tố bảo đảm cho “tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”. Người đứng đầu phải thực sự là tấm gương về phẩm chất đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận tụy trong công việc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư duy sắc bén, có uy tín chuyên môn, luôn thực hành dân chủ, sâu sát cơ sở, nói đi đôi với làm, quan tâm, chăm lo đến những lợi ích chính đáng của nhân dân, của cấp dưới,... từ đó truyền cảm hứng và lôi cuốn, thúc đẩy cán bộ, đảng viên noi theo. 

Thứ tư, phát huy tốt vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát việc nêu gương của cán bộ, đảng viên.

Để nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đạt hiệu quả cao, phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; đồng thời, kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Trong công tác này, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân có vai trò rất quan trọng, vì “Dân biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo không biết. Việc gì cũng bàn với dân; dân sẽ có ý kiến hay. Phải làm tốt công tác báo công, bình công ngoài nhân dân”(15). Mọi ưu điểm, hạn chế của cán bộ, đảng viên, nhất là về đạo đức, lối sống, đều được bộc lộ thông qua công tác, sinh hoạt và giao tiếp với nhân dân. Qua đó, nhân dân sẽ phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp về những ưu điểm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, giúp cho tổ chức đảng, cơ quan chức năng nhận xét, đánh giá và có biện pháp giáo dục, uốn nắn, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Để phát huy tốt vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường lãnh đạo công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện tốt những quy định của Trung ương về dân chủ cơ sở; giám sát và phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền…(16), với những hình thức và cách làm cụ thể, sáng tạo, nhằm phát huy đầy đủ vai trò của nhân dân trong giám sát cán bộ, đảng viên, tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng./.

NGUYỄN NGỌC SƠN - NGUYỄN THỊ NGHĨA, Cục Chính trị Quân khu 9 - Học viện Chính trị khu vực IV - Nguồn: Tạp chí Cộng sản
--------------------------

(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 614 - 615.

(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.181.

(3) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, t.6, tr.162.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t.5, tr.313, 309.

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 284.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 546.

(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 92.

(8) Ban Thời sự: “Nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII: Hơn 1.000 tổ chức đảng, gần 52.000 đảng viên bị kỷ luật”, Báo điện tử Đài Truyền hình Việt Nam, ngày 27-9-2023, https://vtv.vn/chinh-tri/nua-dau-nhiem-ky-dai-hoi-xiii-hon-1000-to-chuc-dang-gan-52000-dang-vien-bi-ky-luat-20230927115008758.htm.

(9) Thu Hà: “Án tham nhũng tăng hơn 2 lần, 31 cán bộ Trung ương quản lý bị xử lý hình sự”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 16-8-2023, https://dangcongsan.vn/thoi-su/an-tham-nhung-tang-hon-2-lan-31-can-bo-trung-uong-quan-ly-bi-xu-ly-hinh-su-644341.html.

(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 547.

(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 36.

(12) Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đáu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.

(13) Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.

(14) Quy định số 101-QÐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị, "Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên"; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.

(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr. 526.

(16) Như: Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Quyết định 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị, ban hành “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Quy định số 213-QĐ/TW, ngày 2-1-2020, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú”; “Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở”.

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.