Hội nghị tổng kết thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chủ tịch nước đề nghị tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò tiên phong của đối ngoại trong bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy."



Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng phát biểu chỉ đạo. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Sáng 6/4, tại Hà Nội, Ban Cán sự Đảng Bộ Ngoại giao tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới."

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, Trưởng Ban chỉ đạo tổng kết Nghị quyết dự và chỉ đạo hội nghị. Cùng dự có lãnh đạo một số ban, bộ, ngành Trung ương.

Báo cáo tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn cho biết, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và triển khai Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI là một nhiệm vụ trọng tâm của Bộ trong 10 năm qua.

Phát huy vai trò tiên phong, ngoại giao cùng quốc phòng, an ninh và các lực lượng triển khai đồng bộ, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 8.

Quan hệ với các đối tác ngày càng đi vào chiều sâu, ổn định, góp phần quan trọng vào việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước; góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; làm thất bại mọi âm mưu chống phá trong các lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo.

Qua thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc đã thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; nâng tầm ngoại giao đa phương, tăng cường sự hiện diện tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.

Các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân phối hợp ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả.

Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đánh giá cao thành tựu của đối ngoại và ngoại giao, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó nổi bật là góp phần quan trọng củng cố vững chắc cục diện đối ngoại thuận lợi cho việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Chủ tịch nước nhấn mạnh đối ngoại và ngoại giao đã góp phần tạo những bước phát triển quan trọng trong các khuôn khổ quan hệ đối ngoại, nhất là với các nước láng giềng, các đối tác quan trọng, các nước bạn bè truyền thống, từ đó tạo dựng mạng lưới quan hệ ngày càng rộng mở, đi vào chiều sâu, ổn định; giữ vững đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác.

Các hoạt động đối ngoại và ngoại giao còn góp phần củng cố đại đoàn kết dân tộc, vận động kiều bào tham gia đóng góp vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; củng cố và nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, nhất là tại các diễn đàn đa phương quan trọng; đồng thời, huy động nhiều nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế-xã hội.

Chủ tịch nước nêu rõ tình hình quốc tế đang chuyển biến phức tạp, đặt ra những vấn đề mới cho công tác đối ngoại cũng như sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Do đó, Bộ Ngoại giao cần tiếp tục quán triệt, triển khai những định hướng của Nghị quyết Trung ương 8 và những định hướng lớn của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết của Đại hội XIII và Nghị quyết 34-NQ/TW về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.


Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và các đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Chủ tịch nước đề nghị cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò tiên phong của đối ngoại trong bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy," quán triệt sâu sắc chỉ đạo, định hướng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về bản sắc ngoại giao “cây tre Việt Nam,” “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển,” “dĩ bất biến, ứng vạn biến.”

Đồng thời, tiếp tục giữ vững và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước, các đối tác, củng cố và tăng cường tin cậy chính trị, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở giữ vững lập trường, nguyên tắc, ứng xử linh hoạt, sáng tạo, khôn khéo.

Chủ tịch nước chỉ đạo ngành ngoại giao cần đẩy mạnh ngoại giao kinh tế hiệu quả, thực chất, góp phần tăng cường tiềm lực đất nước; phát huy tối đa thế và lực mới của đất nước, nâng cao hơn nữa vị thế quốc gia.

Ngành ngoại giao cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh và các cấp, các ngành tăng cường hơn nữa công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược để đáp ứng yêu cầu bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới; không ngừng tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức; bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên về bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu xây dựng nền ngoại giao Việt Nam vững mạnh, chuyên nghiệp, toàn diện, hiện đại.

Cũng nhân dịp này, Bộ Ngoại giao đã tổ chức khen thưởng cho các tập thể có thành tích xuất sắc trong 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI)./.

PV - Nguồn: TTXVN/Vietnamplus

 Chuẩn mực đạo đức cách mạng hiện nay của cán bộ, đảng viên đối với công việc phải được xây dựng trên cơ sở kế thừa văn hóa truyền thống của dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hóa đạo đức của thời đại mở cửa, hội nhập quốc tế.



Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo khoa học “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ngày 22/5/2022.

NHỮNG BIỂU HIỆN CỤ THỂ CỦA CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG ĐỐI VỚI CÔNG VIỆC

Đạo đức cách mạng là một trong những giá trị cốt lõi của người cán bộ, đảng viên; là yếu tố quan trọng tạo nên giá trị, vị thế, uy tín của người cán bộ, đảng viên trong xử lý các mối quan hệ xã hội và trong công việc. Bên cạnh yếu tố trí tuệ, tài năng, chuẩn mực đạo đức giúp cán bộ, đảng viên làm việc có mục đích, luôn kiên định và giữ vững mục tiêu, lý tưởng, thấy rõ bổn phận và trách nhiệm, điều chỉnh hành vi ứng xử, trong bất cứ hoàn cảnh nào; khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ hãi, chán nản, lùi bước.

Trong thực hiện công việc, đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên được thể hiện thông qua những phẩm chất, thái độ, tư duy, phương pháp, cách ứng xử với mục tiêu cao nhất là hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần hiện thực hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn. Thông qua công việc, người cán bộ được thực hành các tiêu chuẩn đạo đức, được thể hiện nhân cách, được bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của cá nhân, qua đó, góp phần lưu giữ, làm giàu truyền thống đạo đức của tập thể và của dân tộc. Đối với người đảng viên, đạo đức cách mạng là yếu tố quan trọng tạo nên bản chất của Đảng như Bác Hồ đã từng khẳng định “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”; sự giàu có về đạo đức cách mạng sẽ làm cho Đảng có đủ bản lĩnh, dũng khí, tư cách, tài năng lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Những tiêu chí cụ thể của chuẩn mực đạo đức đối với công việc được thể hiện ở nhiều khía cạnh, nhiều giá trị đã được khẳng định và đang được cán bộ, đảng viên thực hiện, đó là: Tinh thần yêu Tổ quốc, tự hào về truyền thống dân tộc; nắm vững và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; am hiểu công việc, tâm huyết với nghề nghiệp, thực hiện đúng chức trách, thẩm quyền, nhiệm vụ được giao; luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết và trước hết; có ý thức giữ gìn danh dự, phẩm giá, uy tín của cán bộ, đảng viên; có tinh thần đoàn kết, phối hợp, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong thực hiện nhiệm vụ được giao; thường xuyên tự soi, tự sửa, rút kinh nghiệm trong thực hiện nhiệm vụ để hoàn thiện bản thân, phát triển những giá trị mới của đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới. Thông qua công việc, những tiêu chuẩn, giá trị đạo đức nêu trên của người cán bộ, đảng viên được bộc lộ, được rèn luyện và được chuẩn hóa, phát triển lên tầm cao mới phù hợp với chức trách, nhiệm vụ đảm nhận.

Bên cạnh phần lớn cán bộ, đảng viên luôn tuân thủ và thực hành tốt đạo đức cách mạng đối với công việc, vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về nhiều mặt, trong đó có suy thoái về đạo đức công vụ với nhiều biểu hiện cơ bản như: Phai nhạt lý tưởng, lười học tập lý luận chính trị; chỉ lo vun vén lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân; không chấp hành kỷ luật, kỷ cương; quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu khi giải quyết công việc liên quan đến tổ chức và nhân dân. Thực tế những năm qua, đã có hàng nghìn cán bộ, đảng viên vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống đã bị kỷ luật, trong đó, có cả những đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo thiếu gương mẫu, đạo đức, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cá nhân chủ nghĩa, không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao và phải chịu các hình thức kỷ luật đảng như cảnh cáo, cách chức, khai trừ ra khỏi Đảng; bị pháp luật trừng trị, khởi tố, bắt giam. Trong 10 năm qua, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 8 Ủy viên, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Điều đó đặt ra yêu cầu phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên đối với công việc để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các sai phạm của cán bộ, đảng viên ngay từ khi mới phát sinh.

HOÀN THIỆN CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN ĐỐI VỚI CÔNG VIỆC TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Chuẩn mực đạo đức cách mạng hiện nay của cán bộ, đảng viên đối với công việc phải được xây dựng trên cơ sở kế thừa văn hóa truyền thống của dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hóa đạo đức của thời đại mở cửa, hội nhập quốc tế. Mục tiêu của hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng là để cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi, ứng xử trong công việc hằng ngày, hoàn thiện bản thân, xây dựng giá trị chung của cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới. Chuẩn mực đạo đức phải bám sát và phục vụ nhiệm vụ chính trị đang đảm nhiệm, phù hợp với môi trường, điều kiện làm việc mới như không gian mạng, môi trường số.

Việc tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên là yêu cầu vừa cấp thiết vừa có ý nghĩa chiến lược trong việc xây dựng và hoàn thiện nhân cách, phẩm chất văn hóa của con người Việt Nam trong thời đại mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng đã đặt ra yêu cầu các cơ quan chức năng “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần Đảng ta là đạo đức, là văn minh cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”(1).

Dưới góc độ nghiên cứu, các chuẩn mực đạo đức cách mạng của người đảng viên đối với công việc cần được chuẩn hóa theo các nhóm sau đây:

Thứ nhất, nhóm chuẩn mực đạo đức về hệ tư tưởng, ý thức chính trị gồm các yếu tố làm nên tiêu chuẩn chính trị của người cán bộ đảng viên như lòng trung thành, sự tin tưởng, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của bản thân; nghiêm chỉnh chấp hành, tuân thủ mọi chủ trương, đường lối của Đảng, kỷ luật đảng; không suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống; không có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, luôn có ý chí, khát vọng cống hiến vì sự phát triển của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân.

Thứ hai, nhóm chuẩn mực đạo đức về pháp luật là các tiêu chí thể hiện sự tuân thủ, thực hiện đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị nơi công tác; giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, giữ nghiêm kỷ luật, bảo đảm cho một xã hội luôn được vận hành một cách trật tự, có kỷ luật, kỷ cương.

Thứ ba, nhóm chuẩn mực đạo đức về quan hệ xã hội là các tiêu chí về mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với cấp trên, cấp dưới và đồng nghiệp, với nhân dân, với đối tác trong thực thi nhiệm vụ được giao. Trong đó, cần chú trọng đến các giá trị như sự trung thực, sự tận tụy, tận tâm, tinh thần đoàn kết, tương trợ nhau trong công việc. Đặc biệt là trong sự tương tác, giải quyết công việc liên quan đến nhân dân, người cán bộ, đảng viên phải có các phẩm chất đạo đức: tôn trọng nhân dân, tin dân, gần dân và học dân.

Thứ tư, nhóm chuẩn mực đạo đức về khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Hiện nay, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang phát triển mạnh mẽ, việc ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ được thực hiện ở hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề, đòi hỏi người cán bộ, đảng viên cũng cần có những tiêu chuẩn, tiêu chí về đạo đức cách mạng như sử dụng đúng mục đích, sử dụng tiết kiệm và bảo quản tốt tài sản các phương tiện cơ sở, vật chất, trang thiết bị; giữ gìn bí mật quốc gia, tích cực tham gia phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng.

Thứ năm, nhóm chuẩn mực đạo đức trong quan hệ quốc tế. Đất nước ta đang chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng nhằm tận dụng thời cơ, nguồn lực từ quốc tế phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cán bộ, đảng viên khi thực hiện nhiệm vụ ngoại giao, quan hệ quốc tế cũng cần phải có những tiêu chuẩn phẩm chất, đạo đức như tinh thần hòa hiếu, lòng vị tha, ứng xử văn hóa, có trách nhiệm, ham học hỏi, cầu tiến bộ.


Đồng chí Võ Văn Thưởng và các đại biểu tham quan triển lãm ảnh và sách “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ngày 22/5/2022.

Song song với các nhóm chuẩn mực nêu trên, cần đẩy mạnh giáo dục đạo đức và quy định chế độ học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên.

Với tư cách là bộ phận ưu tú của dân tộc, thành viên của đội tiên phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, cán bộ, đảng viên ở bất cứ vị trí công tác nào cũng đều phải tiên phong gương mẫu trong rèn luyện, tu dưỡng, thực hành đúng đắn các chuẩn mực đạo đức cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Mỗi cán bộ, đảng viên cần xác định tâm thế rèn luyện đạo đức cách mạng thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi, gắn với thực tiễn công việc của bản thân để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Bên cạnh sự tự giác của cá nhân, các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị cũng cần tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng để cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi, ứng xử trong công việc hàng ngày, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách, không bị cám dỗ bởi tiền tài, vật chất, danh vọng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội. Đồng thời, cần quy định chế độ học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên thông qua thực hành công việc, thực hiện chức trách, nhiệm vụ.

Sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời gian tới bên cạnh những thuận lợi, thời cơ cũng có không ít khó khăn, thách thức, nguy cơ, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ có tri thức, năng lực mà còn phải có lòng nhiệt tình cách mạng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có khát vọng cống hiến, phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; không tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; chống chủ nghĩa cá nhân; trọng dân, tin dân, học dân, vì nhân dân, tất cả vì sự phát triển đất nước phồn vinh, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Đó là những biểu hiện của chuẩn mực đạo đức cao đẹp mà mỗi cán bộ, đảng viên phải hướng tới để hoàn thiện nhân cách, phẩm chất của mình, để hoàn thành nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó./.
Chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên đối với công việc được hiểu là những quy định về tiêu chuẩn, nguyên tắc, thước đo hành vi chuẩn mực mà mỗi cán bộ, đảng viên khi thực thi nhiệm vụ đều phải có và tuân thủ. Trong từng giai đoạn, từng công việc khác nhau, các chuẩn mực đạo đức không chỉ được cán bộ, đảng viên thường xuyên rèn luyện thực hành, trau dồi, đồng thời bổ sung, phát triển những chuẩn mực đó lên tầm cao mới cho phù hợp với thời đại, với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Chuẩn mực đạo đức cách mạng được thể hiện bằng các chuẩn giá trị như lòng trung thành, tính trung thực, tận tụy, trách nhiệm, chấp hành kỷ luật, kỷ cương, quy định của pháp luật; luôn có tinh thần đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dấn thân vì sự nghiệp chung, vì thế nó được coi là những căn cứ để đánh giá phẩm chất, nhân cách, thái độ, hành vi của cán bộ, đảng viên, đồng thời là điều kiện để cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao./.
Trung tướng, PGS.TS. Trần Vi Dân, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Cục trưởng Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử, Bộ Công an.

Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo Trung ương

 

Trong giờ phút thiêng liêng được kết nạp vào Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều thề trước cờ Đảng và hình ảnh lãnh tụ, suốt đời đấu tranh phấn đấu theo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tuyệt đối trung thành và nghiêm chỉnh thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng, giữ gìn kỷ luật Đảng và phẩm chất, đạo đức của người cách mạng. Đó là lời thề danh dự định hướng rèn luyện, hành động của mỗi đảng viên, cán bộ.

Suốt các thời kỳ đấu tranh cách mạng, tuyệt đại đa số đảng viên, cán bộ đã thực hiện trọn vẹn lời thề đó, điều này có ý nghĩa quyết định sức chiến đấu, danh dự và uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Sự phấn đấu, hy sinh của các đồng chí lãnh đạo Đảng, của hàng nghìn, hàng vạn cán bộ, đảng viên đã cổ vũ, đoàn kết toàn dân tộc: giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của lịch sử dân tộc; đi tới toàn thắng trong các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc vì hòa bình, độc lập hoàn toàn và thống nhất Tổ quốc; thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII khẳng định: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".

"Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng".

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có những thành công căn bản và quan trọng, bảo đảm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Song công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nhất là một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

"Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc".

Đảng đã thẳng thắn chỉ rõ 27 biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" tại Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10/2016). Biểu hiện hàng đầu của sự suy thoái đó là: "Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh".

Không chỉ phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin, mà một bộ phận cán bộ, đảng viên còn có biểu hiện "Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái" và những biểu hiện sai trái khác. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: "Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị là căn bản và có ý nghĩa quyết định bảo đảm bản chất cách mạng, sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng là điều nguy hiểm nhất với sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Vì vậy, phải đấu tranh chống các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh đó càng đòi hỏi sự trong sạch trong nội bộ Đảng, phải ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.

Cách mạng và dân tộc Việt Nam từ năm 1930 đến nay do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã và đang phát triển trên con đường đúng đắn với những thắng lợi và thành tựu to lớn. Vì sao với hiện thực rõ ràng như vậy vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động, giảm sút niềm tin vào lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội? Cần thiết phải làm rõ nguyên nhân.

Có những người bị chi phối bởi quan điểm sai trái của các thế lực thù địch cho rằng sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm dẫn tới sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự thật là, đó là sự tan vỡ của một mô hình với những hạn chế và khuyết điểm hoàn toàn có thể điều chỉnh, sửa chữa được.

Chính sự phản bội và nhân danh tư duy chính trị mới đã phủ nhận thành quả vĩ đại của chủ nghĩa xã hội, đưa các nước đó rời bỏ con đường xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã sửa chữa những khuyết điểm của mô hình cũ bằng đường lối đổi mới. Kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội và đổi mới thành công đã làm cho nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.

Các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đã tổng kết điều đó. Đặc biệt, tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam công bố năm 2021 là sự phát triển quan trọng nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cần phải quán triệt và nhận thức sâu sắc những tổng kết có giá trị khoa học và hiện thực của Đảng trong từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đó là điều có vai trò quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị và phai nhạt lý tưởng cách mạng.

Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận, tư tưởng đó quyết định bản chất cách mạng, khoa học, bản lĩnh chính trị, sức chiến đấu của Đảng và cũng quyết định ý chí, lý tưởng cách mạng và phẩm chất chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên. Đảng nhiều lần nhấn mạnh, học tập, nghiên cứu nền tảng tư tưởng của Đảng không phải là thuộc lòng câu chữ mà phải nắm vững giá trị mang tính quy luật, phương pháp luận khoa học để vận dụng sáng tạo và không ngừng phát triển.

Bộ Chính trị khóa XII chủ trương tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phê phán, bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Qua cuộc đấu tranh đó để toàn Đảng và nhân dân cảnh giác và góp phần nâng cao nhận thức về tư tưởng, lý luận, tăng sức đề kháng trong Đảng và toàn xã hội. Những người phai nhạt lý tưởng, dao động, giảm sút niềm tin, hoặc bị ảnh hưởng từ những luận điệu sai trái, thù địch, cố tình phụ họa, tiếp tay cho kẻ địch, hoặc do trình độ nhận thức hạn chế, bản lĩnh chính trị không vững vàng, ít chịu học tập, rèn luyện, tu dưỡng và cả sự chủ quan, kiêu ngạo, cố tình quay lưng lại với sự thật.

Vì vậy phải chú trọng công tác giáo dục, học tập, nghiên cứu lý luận chính trị một cách căn bản, sâu sắc, có hệ thống. Giáo dục sâu sắc, thiết thực lý luận chính trị có ý nghĩa rất quan trọng củng cố sức mạnh của Đảng về tư tưởng, chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi sự phai nhạt lý tưởng cách mạng.

Phòng ngừa sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào cũng cần phải tu dưỡng, rèn luyện tính tiên phong, đức hy sinh và phẩm chất đạo đức cách mạng. Hiểu biết sâu sắc đất nước, dân tộc mình, tự hào, tự tôn dân tộc, tự hào về truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc và không ngừng học tập. Học tập để nâng cao trình độ trí tuệ, hiểu biết lý luận, nhận thức đúng đắn quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để hành động tự giác, có hiệu quả.

Lý tưởng, mục tiêu của Đảng rất rõ ràng là độc lập dân tộc và xây dựng Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. Là cán bộ, đảng viên của Đảng phải tuyệt đối trung thành và phấn đấu vì lý tưởng cao cả đó. Làm sao để trong Đảng không có những đảng viên phai nhạt lý tưởng, càng không thể có đảng viên xa rời tôn chỉ mục đích của Đảng. Hãy luôn luôn ghi nhớ lời thề khi gia nhập Đảng./.

Nguồn: ĐẦU SÓNG NGỌN GIÓ

 

Mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của các thế lực thù địch là chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiêu bài thâm độc, nham hiểm, gây mất đoàn kết, chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Điên cuồng nhất là những tên phản động người Việt lưu vong, còn mang hận thù cá nhân, tiếc nuối chế độ Việt Nam cộng hòa đã sụp đổ, hòng ôm mộng ảo tưởng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hồng Dân chính là kẻ như thế, trên “Vietnamthoibao”, đã đăng tải bài viết: Thử phản biện về “chính trị nhất nguyên”, Y đã lấy Singapore làm hình mẫu, ca ngợi thể chế chính trị dân chủ, đa đảng của đất nước này để so sánh, phê phán Việt Nam là “bảo thủ”, “độc tài, toàn trị” … Thực chất đây là những thủ đoạn dọn đường cho sự hình thành tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hòng vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dù có “trăm phương nghìn kế”, các thế lực thù địch cũng không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên về niềm tin của nhân dân ta đồng lòng đi theo Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với những thành tựu to lớn đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và lịch sử.

Trước tiên, cần phải khẳng định rằng: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là cần thiết, tất yếu, khách quan, là chính danh, hợp hiến và hợp pháp. Được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ, đồng thuận được quy định trong Hiến pháp, trong Cương lĩnh và trong Điều lệ Đảng. Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Thứ hai, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định trong thực tế cách mạng và được nhân dân thừa nhận. Việt Nam từng có thời kỳ đa đảng: Năm 1946, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại hai đảng đối lập là Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh Hội. Hai đảng này đã bám gót ngoại bang, nên không được nhân dân chấp nhận. Có thời kỳ, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944-1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (1946-1988), hai đảng này cũng không được đa số nhân dân giao cho sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng và tự giải tán.

Thứ ba, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế kiểm nghiệm, nhất là vào những bước ngoặt của lịch sử. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thắng lợi: Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Thứ tư, Nhân dân Việt Nam đã thừa nhận và ủy quyền Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Ngay từ khi ra đời Đảng luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, được Nhân dân thương yêu, đùm bọc, che chở và xây dựng. Hơn 93 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận rõ hơn ai hết, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có một lực lượng, một tổ chức nào có thể đại diện chân chính cho lợi ích của mình. Vì thế, nhân dân tin tưởng trao quyền lãnh đạo cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ năm, ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước và xã hội. Để xứng đáng với sự tin cậy của Nhân dân, Đảng đã đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong, vai trò của Đảng cầm quyền và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.

Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hiển nhiên, là sự lựa chọn và giao phó của lịch sử, của nhân dân và dân tộc Việt Nam, Đảng không tranh giành vai trò lãnh đạo với bất kỳ đảng phái nào. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà Nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng 93 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai trái của Hồng Dân cũng như các thế lực thù địch, phản động và chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Đó là sự thật không thể phủ nhận./.

Nhân văn Việt

 

Trong lịch sử chứng minh, bất chấp các đợt sóng công kích, chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin của mọi loại “kẻ thù lớn nhỏ”, nhưng kỳ lạ thay, sau mỗi lần như thế, bản chất khoa học, cách mạng, tiếng vang và tầm ảnh hưởng của học thuyết này không những được tái khẳng định, mà còn được lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng hơn với tinh thần mới, sức sống mới.

Ở  nước ta, với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chủ yếu nhằm hạ thấp uy tín, vị thế, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, trực diện là xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, bôi đen, hạ thấp vai trò, tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với nhiều kịch bản nham hiểm nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước; chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, Quốc hội với Quân đội, Công an và Nhân dân với nội dung, hình thức mới khiến chúng ta không thể xem thường.

Đối tượng mà các thế lực thù địch tập trung chống phá là khá toàn diện; trong đó đội ngũ trí thức được họ đặc biệt quan tâm với tham vọng: lực lượng này sẽ tạo ra sự “khô đảng, nhạt đoàn, thờ ơ chính trị” trên diện rộng để từng bước làm phai nhạt hệ tư tưởng vô sản; tạo ra sự đứt gãy từ những tác động, ảnh hưởng của Đảng đối với thế hệ trẻ và nhân dân, từ đó dễ bề ngăn chặn sự lan tỏa, tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xã hội, thể hiện  ưu thế của CNTB, cũng như văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam, dần dần chiếm địa vị thống trị đời sống tinh thần xã hội Việt Nam.

Các thế lực thù địch đã và đang triệt để khai thác mạng xã hội và áp dụng các chiêu trò cũ, thủ đoạn mới rất thâm độc là – lấy kết quả, kinh nghiệm đúc rút từ đánh sập CNXH ở Liên Xô và Đông Âu từ những năm 90 của thế kỷ XX để áp dụng vào Việt Nam; ra sức gây sự hỗn loạn về tư tưởng; đặc biệt là sự thờ ơ chính trị cộng sản, tẩy chay, phản kích chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngay trong nội bộ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; những người đã từng có vị thế, vai trò chủ chốt trong hệ thống chính trị. Trong đó, đối tượng họ đặc biệt quan tâm lôi kéo, mua chuộc là một số cán bộ hưu trí và doanh nhân bất mãn, bất đồng quan điểm chính trị, đối lập về hệ tư tưởng với Đảng; có thái độ “phủ nhận sạch trơn” thành quả của chế độ XHCN khi quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế của họ bị xung đột.

Cùng với đó, họ “bơm tin giả”, “mớm mồi”, “xúi giục” những người này phát ngôn lệch chuẩn, tán phát các tin, bài, video clip có nội dung sai trái, gây nhiễu loạn đời sống văn hóa, tinh thần xã hội cốt để bôi đen chế độ XHCN. Đó là cách hành xử mà họ muốn tạo ra, ở một chừng mực nhất định, họ đã đạt được một số kết quả, rõ nhất là tạo ra hiện tượng phân rã về mặt tổ chức, sự phân hóa đối tượng cán bộ, đảng viên ở một số cơ quan, đơn vị “chậm tiến”, “không hoàn thành tốt nhiệm vụ”; làm mất đi tính chất thiêng liêng, cao quý của danh hiệu đảng viên, nhất là những người có uy tín trong tổ chức đảng, đã gục ngã bởi “viên đạn bọc đường của thời cơ chế thị trường” và chủ nghĩa cá nhân. Những người này đã “tự thú sai lầm” về việc cả đời tin tưởng và đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tin vào đường lối đổi mới của Đảng.

Trong số cán bộ vi phạm kỷ luật có người đã từng giữ chức vụ cao cấp trong bộ máy của Đảng, Nhà nước ta; thậm chí có người là giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, đã từng làm công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực thù địch là tinh vi, thâm độc và nguy hiểm vì họ biết lợi dụng tình thế, đánh vào sự tự tôn, tự trọng, tự cao, tự ái của những người đã từng có chức, có quyền khi mất chức; sử dụng uy tín của những người có danh tiếng đã “thất sủng” để gây ảnh hưởng tiêu cực trong nhân dân; tạo ra thái độ, hành vi “chán ngán” chính quyền, chế độ; đã phát ngôn thiếu ý thức xây dựng, nhất là sự bày tỏ quan điểm không hài lòng về các sự việc liên quan trực tiếp đến lợi ích của mình.

Từ đó, họ quy kết mọi sai lầm của Đảng, Nhà nước về một khuyết điểm chung, lớn nhất là do Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Các phát ngôn và hành vi thiếu chuẩn mực cũng từ đây mà “tuôn ra”; thậm chí vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng do coi thường chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối đổi mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Đây là mảnh đất mầu mỡ để “nảy chồi tư tưởng dân chủ”, phục hưng “cuộc cách mạng nhân dân” mà điểm mấu chốt là làm rối loạn nhận thức, gây ra các “cuộc đấu khẩu”, “đấu lý” trên mặt trận chính trị tư tưởng nguy hiểm, nhất là trên mạng xã hội. Họ đã bám vào sự việc có thật là sụp đổ của chế độ XHCN theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu, để tấn công Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Hơn thế, biết cách lựa chọn những vấn đề nóng, được xã hội đặc biệt quan tâm để tập trung chống phá; huy động, tập hợp các đối tượng bất mãn, hướng trọng tâm, trọng điểm vào chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, “xoáy” vai trò lãnh đạo của Đảng; con đường đi lên CNXH ở nước ta, nội dung Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Luận điểm nổi nhất mà họ tập trung xuyên tạc là: “Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết ngoại lai”, “ra đời ở châu Âu; mà châu Âu lại không phải là Việt Nam nên nó xa lạ với Việt Nam”, v.v.. Từ đó, họ kích động các phần tử bất mãn “quay lưng”, chống phá Đảng ta. Hơn thế, họ còn cổ suý cho việc nhận thức lại sự khác biệt, tính chất xa vời của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam để “tẩy chay chủ nghĩa Mác – Lênin”, “chỉ nên giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh” nhưng thực chất là phủ nhận cả hai.

Tư tưởng độc hại này đã và đang được tán phát trên không gian mạng, tạo ra luồng dư luận tiêu cực, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập và làm tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, khi sự “bán tín bán nghi” tồn tại trong đầu óc một số người dân là rất nguy hiểm và chính nó đang tạo ra nguy cơ trực tiếp hủy hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta; để lại khoảng trống và các khe hở trong công tác tư tưởng, làm cho các thế lực thù địch dễ dàng lợi dụng, phản kích chủ nghĩa Mác – Lênin mà không tốn nhiều công sức.

Như vậy, đối với mỗi người chúng ta có một chuỗi công việc cần làm để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, việc trước tiên là đầu tư một cách căn cơ công tác nghiên cứu cơ bản, chiến lược; bổ sung, phát triển, làm sống động chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng. Đưa được kết luận khoa học về những luận điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đến nay vẫn còn nguyên giá trị; nghĩa là ở thời các ông và thời nay đều đúng. Đồng thời, phải chỉ ra một số luận điểm của các ông đến nay không còn phù hợp, cần phải bổ sung, phát triển, làm sâu sắc hơn bằng chính thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Theo đó, hệ thống giáo trình, giáo khoa, tài liệu học tập, tuyên truyền, giáo dục chính trị cũng cần phải chuẩn hóa lại, nâng cao hơn nữa tầm tư tưởng, trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân./.

Nguồn: Nhân Quyền

 Thời gian gần đây, các đối tượng lừa đảo với nhiều chiêu bài “tung hoành” trên không gian mạng và qua các cuộc gọi, tin nhắn điện thoại, khiến nhiều người nhẹ dạ cả tin mất sạch tiền.


Công an Thành phố Hà Nội và Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh cảnh báo 20 hình thức lừa đảo qua mạng xã hội, điện thoại thường gặp, người dân cần lưu ý.


Trong giai đoạn đẩy mạnh và tăng tốc chuyển đổi số hiện nay, các đối tượng xấu đã lợi dụng sự bùng nổ về công nghệ thông tin, những tiện ích mà công nghệ thông tin mang lại để thực hiện nhiều vụ lừa đảo trực tuyến, chiếm đoạt tài sản có giá trị cao.

Theo Phó Cục trưởng Phụ trách Cục An toàn thông tin (Bộ TT&TT) Trần Đăng Khoa, hành vi lừa đảo trực tuyến thời gian qua phổ biến hơn. Việc lừa đảo đánh cắp thông tin cá nhân là bước đệm để thực hiện lừa đảo tài chính. Đối tượng lừa đảo lợi dụng tâm lý nhẹ dạ, cả tin hoặc đánh vào lòng tham để đạt mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bộ TT&TT đã thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt bảo vệ người dân trên không gian mạng như phát triển các trang thông tin, xử lý tin nhắn rác, lừa đảo (chongthurac.vn); trang cảnh báo an toàn thông tin Việt Nam (canhbao.khonggianmang.vn); cung cấp công cụ nhận diện lừa đảo trực tuyến, kỹ năng phòng, chống lừa đảo (congcu.khonggianmang.vn)…/.

Bàng Vuông tổng hợp

 Đúng vào dịp tuổi trẻ cả nước tổ chức các hoạt động chào mừng kỷ niệm 92 năm Ngày thành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn gia tăng chống phá với các luận điệu như: “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên”; nhiệm vụ của thanh niên là phải đứng lên đấu tranh “chống độc tài, đòi tự do, dân chủ đa đảng” (!)…


Có thể thấy, âm mưu lợi dụng “tự do, dân chủ” để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là vấn đề không mới, tuy nhiên lần này chúng chĩa mũi nhọn trực tiếp vào đối tượng thanh niên, cho thấy dã tâm nham hiểm của bọn chúng là rất lớn, hòng làm cho một số thanh niên thiếu bản lĩnh sẽ hoài nghi, dao động dẫn đến phai nhạt lý tưởng, xa hơn nữa là không tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, kích động chống phá chế độ.

Thực tiễn đã chứng minh, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng đảm bảo quyền tự do, dân chủ, lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân ở mỗi cấp, mỗi ngành, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này được khẳng định rõ tại  Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đối với thanh niên, Đảng ta luôn đặt niềm tin và đánh giá cao vai trò, vị trí và sứ mệnh to lớn của thanh niên trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng nhận thức rõ hơn về tính chính trị và tính xã hội quy định đối với hai chức năng của Đoàn Thanh niên là: “đội dự bị” của Đảng và “đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên”; Cả hệ thống chính trị quan tâm, chăm lo cho thanh niên và tổ chức đoàn, phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong phát triển kinh tế – xã hội; có cơ chế bầu cử hợp lý để tạo điều kiện cho thanh niên có đại diện của mình trong các cơ quan Nhà nước và cơ quan dân cử. Cùng với đó, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền tham gia và lắng nghe ý kiến của thanh niên. Đồng thời, cấp ủy, chính quyền các cấp đã quan tâm, tin tưởng giao nhiệm vụ, thử thách, tạo điều kiện, cổ vũ, động viên thanh niên và các tổ chức của thanh niên thực hiện các chương trình, dự án, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc. Từ những điều trên cho thấy, luận điệu cho rằng: “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên” là hoàn toàn sai trái, cần đấu tranh bác bỏ.

Luận điệu cho rằng thanh niên cần đấu tranh xóa bỏ chế độ “độc đảng” (Đảng Cộng sản Việt Nam), xây dựng chế độ “đa đảng” là không thể chấp nhận được. Bởi trước hết, một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng nghĩa với mất dân chủ, kém phát triển và  tự do, dân chủ không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng. Thực tế cho thấy, có không ít nước đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, chậm phát triển; ngược lại, có những nước chỉ có một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ được bảo đảm, kinh tế, xã hội phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được đảm bảo. Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, thử thách qua các giai đoạn cách mạng, thanh niên Việt Nam luôn chứng tỏ bản lĩnh sắt son niềm tin với Đảng, với chế độ, có tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm cao, dám dấn thân, đảm nhiệm việc mới, việc khó, sẵn sàng đi tới bất kỳ đâu khi Đảng và đất nước cần. Cho nên, luận điệu “xúi giục”, “kêu gọi” thanh niên đấu tranh đòi “tự do, dân chủ đa đảng” là đi ngược với thực tế và nguyện vọng của thanh niên.

Từ những vấn đề trên cho thấy, âm mưu xúi giục thanh niên đòi “tự do, dân chủ đa đảng” là hết sức thâm độc, nham hiểm và trắng trợn của các thế lực thù địch. Do vậy, mỗi người dân nói chung, thanh niên nói riêng phải nâng cao nhận thức, cảnh giác, tỉnh táo, nhận diện, đấu tranh kịp thời; đồng thời, tin tưởng tuyệt đối vào đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước./.

Nhân văn Việt

 Tháng Ba, đánh dấu sự kiện ngày 09/3, Việt Nam công bố cuốn “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”, minh bạch hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Nhà nước Việt Nam và thành tựu bảo đảm quyền tự do tôn giáo ở nước ta trong thời gian qua. Cuốn sách, một lần nữa khẳng định, Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng; “không một cá nhân, tổ chức tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị ngăn cấm”.



Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết

Từ khi ra đời, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chính sách bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, tôn trọng và tạo mọi điều kiện thuận lợi để mọi người cũng như các tôn giáo hoạt động và tham gia đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với tinh thần “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”, Đảng ta rất coi trọng chính sách đoàn kết và hòa hợp giữa các tôn giáo, bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật.

Sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Nhà nước Việt Nam không ngừng hoàn thiện tư duy lý luận về tôn giáo và quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo. Nghị quyết 24 (1990) của Bộ Chính trị, khoá VI về công tác tôn giáo và Nghị quyết 25 (2003) của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về công tác tôn giáo đã có những bước đổi mới có tính đột phá, thừa nhận “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân; đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” và “tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đây là những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện một cách rõ ràng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không chỉ khẳng định sự “tồn tại lâu dài” của tôn giáo, mà còn phát triển lên mức cao hơn, làm rõ mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với quan điểm đó, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng đã được minh định theo hướng “vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo; công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị”.

Cũng xuất phát từ quan điểm đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam đều được luật hoá trong các bản Hiến pháp và các bộ luật liên quan với đầy đủ bình diện “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm”, “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” (Hiến pháp 2013, Điều 24).

Hoà hợp, bình đẳng giữa các tôn giáo

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân không chỉ tồn tại trên các văn bản pháp luật, mà đã được bảo đảm trên thực tế bằng những căn cứ rất thuyết phục. Nhà nước bảo đảm sự đa dạng, hòa hợp và bình đẳng tôn giáo và không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo được tham gia vào đời sống chính trị xã hội của đất nước. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, ở Việt Nam không có tôn giáo nào giữ vị trí độc tôn mà các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, không bị phân biệt đối xử. Các tôn giáo chung sống hài hòa, đoàn kết, gắn bó đồng hành với dân tộc, không có xung đột sắc tộc, tôn giáo. Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động một cách bình thường; các thủ tục công nhận các tổ chức tôn giáo, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, thành lập cơ sở đào tạo, mở lớp bồi dưỡng tôn giáo, xuất bản kinh sách, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo… được thực hiện thuận lợi theo qui định của Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo và pháp luật.

Nhà nước Việt Nam cũng khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo phát huy nguồn lực tham gia các hoạt động an sinh xã hội như giáo dục, y tế và các hoạt động từ thiện nhân đạo, bảo trợ xã hội. Vấn đề đất đai liên quan đến tôn giáo luôn được Nhà nước quan tâm giải quyết.

Đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Là quốc gia đa sắc tộc với 54 dân tộc anh em chung sống hòa bình trải dài trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, nhu cầu chính đáng về tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc ít người đã được chính quyền các cấp quan tâm, bảo đảm và hướng dẫn giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đối với người chấp hành án phạt tù cũng từng bước được quan tâm thể hiện sự nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc thực thi các Công ước quốc tế về quyền con người.


Trong tiến trình thực hiện chủ trương, chính sách đối ngoại “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đã và đang phấn đấu trở thành “công xưởng” và là “Trung tâm sáng tạo” của thế giới thu hút nhiều lao động nước ngoài đến đầu tư, làm việc, học tập trong đó nhiều người là tín đồ các tôn giáo. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam; quan tâm, tạo điều kiện cho họ có nơi sinh hoạt tôn giáo theo qui định của pháp luật Việt Nam.

Hòa trong dòng chảy lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam, với sức mạnh được hun đúc từ mạch nguồn văn hóa: lòng yêu nước nồng nàn, ý thức độc lập dân tộc, tự chủ, tự cường, đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “thương người như thể thương thân”, các tôn giáo ở Việt Nam đều có đóng góp nhất định trong những mức độ khác nhau vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự đóng góp đó, trước hết, thể hiện ở đường hướng hành đạo của mỗi tôn giáo: “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” (Phật giáo); “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào” (Công giáo); “Sống Phúc âm, phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc” (Tin Lành)… Đường hướng hành đạo của các tôn giáo tuy có những điểm khác nhau, nhưng nhìn chung đều nói lên sự gắn bó với dân tộc, với Tổ quốc Việt Nam thân yêu. Có thể nói, các tôn giáo ở Việt Nam vừa là một bộ phận cấu thành của nền văn hóa, đồng thời là nguồn lực quan trọng, góp phần phát triển đất nước. Nhiều điểm tương đồng giữa tôn giáo với xã hội, giữa giáo lý, giáo luật với pháp luật Nhà nước về mục tiêu giải phóng con người, chống áp bức bất công của cách mạng Việt Nam và của các tôn giáo, đã và đang được phát huy cao độ.

Không chỉ đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, tôn giáo còn là một bộ phận cấu thành của văn hoá Việt Nam. Những giá trị văn hóa tốt đẹp, tiến bộ của tôn giáo đã góp phần tạo nên sự phong phú, đặc sắc của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Bằng những giáo lý nhân văn, bác ái của mình, các tôn giáo ở Việt Nam đã phát huy, lan toả các giá trị văn hóa, đạo đức nhân văn, bác ái ấy vào đời sống xã hội, góp phần tạo nên những chuẩn mực đạo đức, văn hóa, ứng xử nhân văn, nhân ái của dân tộc ta, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước, cụ thể hóa thành những hành động thiết thực, cứu người, giúp đời, chung tay cùng đồng bào tôn giáo và đồng bào không có tôn giáo xây dựng đất nước.

Tuy nhiên, trong dòng chảy lịch sử đất nước, các tôn giáo ở Việt Nam không phải chỉ có những “điểm sáng”, mà đôi khi có cả “ánh sáng và bóng tối xen lẫn”. Đó là điều đáng tiếc. Nhưng, chúng ta tin tưởng rằng, sự tương đồng trong mục tiêu phấn đấu vì con người, vì sự phồn vinh của đất nước, vì “mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, tín đồ các tôn giáo, trước hết là con dân Việt, công dân Việt, sẽ sống “tốt đời, đẹp đạo”, mãi tiếp bước trên con đường “đồng hành với dân tộc”, vượt lên mọi thách thức và cả những âm mưu đen tối của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam./.

Tạp chí Nhân quyền Việt Nam số tháng 3/2023

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.