Cùng với sự chống phá trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, những năm gần đây, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng in-tơ-nét (interrnet), mạng xã hội để tuyên truyền, kích động chống phá Đảng, chế độ ta, với những thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc. Vì thế, nhận diện và đấu tranh làm thất bại mưu đồ đó của chúng là giải pháp cấp thiết hiện nay.


Sự phát triển nhanh chóng của in-tơ-nét, mạng xã hội đã đem lại những lợi ích không thể phủ nhận; từng bước khẳng định vai trò thiết yếu trong đời sống xã hội, trở thành môi trường cung cấp, chia sẻ, trao đổi, khai thác sử dụng thông tin cho mọi người và đang thâm nhập vào cuộc sống của con người trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Với đặc điểm nổi trội là tốc độ kết nối nhanh, phạm vi chia sẻ rộng, hiệu quả tác động lớn, in-tơ-nét, mạng xã hội trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống, tác động một cách trực tiếp, làm thay đổi nhận thức, hành vi của mỗi cá thể, qua đó tác động đến sự phát triển của toàn xã hội. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đã lợi dụng thế mạnh của in-tơ-nét, mạng xã hội để chống phá đất nước nói chung, Quân đội ta nói riêng.

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, lực lượng chống cộng cực đoan ở nước ngoài,… triệt để lợi dụng internet và các trang mạng xã hội để tán phát các tin, bài, videoclip có nội dung chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội ta với sự gia tăng cả về cấp độ, mật độ, tần suất và lưu lượng tin, bài,… bằng những chiêu thức, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm hiểm nhằm thu hút sự quan tâm, theo dõi của cộng đồng mạng. Qua đó, chúng thực hiện các biện pháp, thủ đoạn tuyên truyền, kích động, xuyên tạc, chống phá ta một cách quyết liệt, tung tin thất thiệt, lừa bịp, mị dân, thật giả lẫn lộn, làm cho một bộ phận cư dân mạng mất phương hướng, lầm tưởng rằng đó là sự thật, dẫn đến hoài nghi, thiếu niềm tin với Đảng, chế độ. Nổi lên một số thủ đoạn mới đáng chú ý là:

Thực hiện Live stream trực tiếp để kêu gọi cộng đồng mạng can thiệp vào nội bộ hoặc tham gia bình luận trái chiều trên mạng xã hội.

Đây là thủ đoạn dùng tài khoản Facebook với công cụ Live stream để phát videoclip trực tiếp về một sự việc do chúng dựng lên hoặc “lên sóng” trực tiếp trên mạng xã hội để tạo “diễn đàn” kêu gọi mọi người tham gia bình luận về một vấn đề “nóng” được dư luận xã hội quan tâm. Thủ đoạn này được chúng xây dựng “kịch bản” khá công phu, nội dung chúng quay video phát trực tiếp thường là các vụ việc liên quan đến các cuộc biểu tình, khiếu kiện của tổ chức, cá nhân tại các cơ quan công quyền. Chủ đề chúng chọn thường là các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi thiết thực, bức xúc của người dân (thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, quan hệ ứng xử của cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang, thực thi công vụ của các lực lượng chức năng, v.v.). Thời điểm chúng chọn để Live stream thường vào dịp có các sự kiện chính trị của Đảng, Nhà nước (các kỳ họp, ngày lễ, ngày kỷ niệm, nguyên thủ các nước đến thăm Việt Nam,…); qua đó, chúng kêu gọi sự can thiệp của quốc tế và các tổ chức phản động vào Việt Nam, hoặc chúng lồng ghép quan điểm cá nhân, bình luận xuyên tạc, thu hút sự quan tâm của cộng đồng mạng, kêu gọi sự “phụ họa” của các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị tham gia bình luận, chia sẻ. Thông qua đó, chúng “vẽ ra” trong mắt công chúng một Đảng cầm quyền bất ổn, một nhà nước bị chia rẽ cục bộ, một hình ảnh quân đội yếu đuối, công an tham nhũng, v.v.

Cùng với đó, các thế lực thù địch còn sử dụng “khoảng trống thông tin” để tấn công vào sự hiếu kỳ của công chúng.

Đây là thủ đoạn lợi dụng việc báo chí chính thống trong nước khi đưa tin đều phải qua quá trình tiếp cận thực tế, kiểm định nguồn tin, biên tập, thông qua mới cho đăng tin, bài. Thậm chí, để bảo đảm tính chính xác của thông tin và tính toán lợi ích của việc đưa tin, một số vấn đề cụ thể nào đó, có thể bị chậm trễ khi đưa tin. Lợi dụng “khoảng trống thông tin” này, chúng phát tán ồ ạt, trực tiếp những tin, bài xuyên tạc, bóp méo sự thật, thông qua những tiêu đề “giật gân”, “câu khách” về vấn đề dư luận đang quan tâm, nhất là vấn đề liên quan đến nội bộ Đảng, Nhà nước, tham nhũng, tiêu cực dưới các dạng như: thông tin sự việc, đặt câu hỏi, bỏ ngỏ vấn đề để bạn đọc suy ngẫm,… với những thông tin trộn lẫn thật giả, kích thích tính hiếu kỳ, tò mò của cộng đồng mạng muốn vào các trang Facebook, Blog và các tờ báo điện tử phản động, gây tâm lý hoang mang, bán tín, bán nghi, v.v.

Làm mới thông tin cũ, bịa đặt thông tin mới để chống phá Quân đội là thủ đoạn được chúng tiến hành khá “bài bản”. Thông tin cũ được lựa chọn để “làm mới” và “thông tin mới được lựa chọn để bịa đặt” thường là những đoạn videoclip hoặc hình ảnh có liên quan đến mối quan hệ cán bộ với chiến sĩ, cán bộ được cho là “hành hung chiến sĩ”, “chiến sĩ cũ đánh chiến sĩ mới”, các vấn đề liên quan đến dân chủ trong Quân đội, quan hệ quân dân,… do chúng tạo dựng nên hoặc các vụ việc đã được xử lý, giải quyết từ lâu nhưng chúng đưa ra “làm mới”; hoặc những thông tin mới, mặc dù đã có kết luận của các cơ quan chức năng nhưng chúng bịa đặt, xuyên tạc, bình luận một chiều. Thời điểm tán phát để “làm mới” hoặc bịa đặt thường là trước mùa tuyển quân, giao nhận quân, quá trình huấn luyện chiến sĩ mới, trước các sự kiện chính trị của đất nước, Quân đội, v.v. Mục đích của việc tán phát các thông tin, hình ảnh, đoạn clip nêu trên không thuần túy chỉ là sự phản ánh một vụ việc, một con người cụ thể, mà đằng sau đó là âm mưu và sự toan tính hết sức thâm độc của các thế lực thù địch. Chúng muốn đánh vào tâm lý lo lắng, sợ hãi trong nhân dân và thanh niên không muốn nhập ngũ vì sợ vào quân đội sẽ bị “đánh đập tàn bạo”, sẻ trở thành những “quân oan”, hoặc tâm lý chấp nhận “ma cũ bắt nạt ma mới” trong chiến sĩ; qua đó, gây dư luận trái chiều trong xã hội, kích động thanh niên trốn tránh nghĩa vụ quân sự, làm giảm sức mạnh chiến đấu, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong Quân đội. Từ các thông tin, hình ảnh, đoạn clip bị tán phát, sẽ gây nghi ngờ, làm mất đi hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, làm giảm niềm tin của một số cán bộ và các tầng lớp nhân dân về môi trường quân đội, cuối cùng là thực hiện mục tiêu “phi chính trị hóa” Quân đội.

Trên đây là những là những thủ đoạn mà các thế lực thù địch lợi dụng Internet để chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội ta trong thời gian qua. Do vậy mọi cán bộ, đảng viên, hạ sỹ quan, binh sỹ, quần chúng cần nêu cao tinh thần cảnh giác, tỉnh táo trước những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, đấu tranh làm thất bại mục tiêu “phi chính trị hóa” Quân đội của kẻ thù; góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN./.

Nguồn: HVCT

 

Sự “bất tử” của một học thuyết khoa học, cách mạng

Sự sụp đổ của chế độ XHCN theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu là sự thất nặng nề của CNXH hiện thực, của phong trào cách mạng thế giới. Đó cũng là đòn đánh khá nặng vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Lợi dụng tình thế này, một số người có quan điểm đối lập với Đảng Cộng sản đã “đổ thêm dầu vào lửa”, ra mặt hoan hỷ vui mừng với sự thán phục phương Tây “đã khôn khéo sử dụng “diễn biến hòa bình” để chiến thắng CNXH mà không cần chiến tranh”; “kết thúc vai trò lịch sử của Đảng Cộng sản Liên Xô – Thành trì phe XHCN”; mở ra giai đoạn “tính sổ và kết liễu chủ nghĩa Mác – Lênin”. Đồng thời, tuyên bố ầm ĩ về tương lai “chiến thắng CNXH trên phạm vi toàn cầu” thông qua chiến lược đánh hỏng các nước CNXH còn lại, triệt phá nền tảng tư tưởng của các Đảng Cộng sản là chủ nghĩa Mác – Lênin; trong đó xác định Việt Nam là một trọng điểm chống phá.

Đúng là sự ảo tưởng và hoang đường! Chỉ có những người ấu trĩ mới cả tin rằng, chủ nghĩa Mác – Lênin đã bị đánh quỵ, “CNXH đã cáo chung”, còn “những nhà chính trị tư sản nòi”, hơn ai hết lại cho rằng, “cuộc chiến chống chủ nghĩa Mác – Lênin không hề đơn giản, không dễ dàng có được thành công, nó chỉ bước sang giai đoạn mới với nội dung, hình thức mới”. Sự dè chừng của những “nhà chính trị tư sản nòi” không phải là vô cớ. Họ quá rõ rằng, không phải đến ngày nay, chủ nghĩa Mác – Lênin mới bị giai cấp tư sản “khai tử”, mà ngay từ khi ra đời cho đến nay, họ đã tuyên bố như thế, muốn như thế.

Hơn một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, chủ nghĩa Mác – Lênin đã bị các thế lực thù địch kết án “tử hình” nhiều lần nhưng nó vẫn “bất tử”, phong trào cách mạng vẫn phát triển. Điều đó phản ánh rõ sự thăngtrầm của lịch sử với vô số cao trào cũng như sự thoái trào, có lúc thành công, cũng có lúc thất bại, cách mạng thế giới phải lui về thế phòng ngự, nuôi dưỡng lực lượng, chờ thời cơ phản công. Ngọn lửa của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn cháy, nó sẽ bùng lên thiêu cháy mọi sự đề nén, áp bức, bất công.

Kể từ sau khi chế độ XHCN theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa cơ hội, xét lại, đúng như tên gọi của nó, có cơ hội để ngốc đầu dậy, toan tính lập lại thế chủ động tiến công “trả thù” với tham vọng: xuyên tạc và đánh bại chủ nghĩa Mác – Lênin. Hơn thế, họ rất tin thời của mình đã đến. Ẩn ý sự thâm thù này của họ là đòi lại danh dự sau những lần bị chủ nghĩa Mác – Lênin vạch mặt, “cắt còi” buộc phải im lặng và họ đã phải chịu “thiệt thòi”, ấm ức, nên rất căm giận cộng sản.

Từ khi còn là “một bóng ma ám ảnh châu Âu”, chủ nghĩa Mác đã phải đối chọi với chủ nghĩa cơ hội, xét lại và chủ nghĩa xã hội không tưởng tiểu tư sản… Cuộc đọ sức đầu tiên của chủ nghĩa Mác là ngăn chặn ảnh hưởng của “phong trào xã hội – dân chủ” với chủ nghĩa xét lại của Becsxtanh và Cauxki để giữ vững lập trường, quan điểm mác xít – những tư tưởng cơ bản về CNXH đã được trình bày trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”.

Với sự phá sản của Quốc tế II, kẻ thù của chủ nghĩa Mác “đã mọc lên như nấm sau trận mưa dào”. Kể từ đây, chủ nghĩa Mác – Lênin đã phải chiến đấu với nhiều loại kẻ thù lớn, nhỏ, đáng kể là hệ tư tưởng của “chủ nghĩa xã hội – dân chủ”, “chủ nghĩa xã hội chân chính”, “chủ nghĩa cơ hội hữu huynh” và “chủ nghĩa cơ hội tả huynh”, “chủ nghĩa xét lại”…, ngăn chặn sự truyền bá, ảnh hưởng của tư tưởng cải lương, thỏa hiệp giai cấp, sự sùng bái nền đại nghị tư sản vào phong trào công nhân quốc tế.

 Trước tình thế đó, đánh bại chủ nghĩa cơ hội, xét lại, bảo vệ các giá trị của chủ nghĩa Mác đặt ra yêu cầu cấp bách, V.I. Lênin đã gánh vác trọng trách ấy và ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Từ đó, chủ nghĩa Mác đã trở thành chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa Mác của thế kỷ XX. Vì lẽ đó, thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin đã dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, thắng lợi của CNXH hiện thực cùng với sự ra đời của hệ thống các nước XHCN thế giới, năm 1945.

Tuy nhiên, sau khi V.I. Lênin qua đời, bản chất khoa học, cách mạng và sức sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin có mặt suy giảm. Sự phát triển của chủ nghĩa giáo điều, sự sơ cứng của tư duy lý luận đã làm hại chủ nghĩa Mác – Lênin và CNXH hiện thực. Tư duy giáo điều đã tỏ ra thiếu sức sống trong việc tổ chức thực tiễn, phát huy đầy đủ, mạnh mẽ những tiềm năng vốn có của chế độ xã hội mới, bế tắc trong giải quyết các vấn đề về chiến tranh và hòa bình. Điều đó đã để âm ĩ lâu ngày, đã không có biện pháp khắc phục, làm cho vũ khí lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin bị han gỉ.

Cùng lúc đó, CNTB lại ra sức rèn giữa vũ khí của mình, nuôi dưỡng lực lượng, hà hơi, tiếp sức cho chủ nghĩa cơ hội, xét lại tấn công CNXH từ bên trong, nhất là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN. Đó là “mảnh đất mầu mỡ” tạo môi trường thuận lợi cho chủ nghĩa cơ hội, xét lại giành “thế thượng phong”, chiếm trận địa tư tưởng, lý luận; đòi “thay máu cho hệ tư tưởng” mà thực chất là phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, thay vào đấy là hệ tư tưởng tư sản, văn hóa phương Tây.

Tình hình đó đã tạo ra sự hưng phấn cho sự “lột xác”, tự đổi mới để thích nghi của CNTB và họ đã từng bước lấn át CNXH. Thực tế là do ảnh hưởng của tư duy giáo điều, sự bảo thủ, trì trệ, đã làm cho CNXH hiện thực phát triển chậm dần và bước vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế – xã hội; làm giảm sút nhất định uy tín, vị thế của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong điều kiện đó, một số người cơ hội, phản động đã không cần “hóa trang, đội lốt mác xít nữa”, họ đã công khai chỉ chích, khích bác, xuyên tạc bản chất khoa học, các mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Do chưa lường trước được những hạn chế, yếu kém, các khuyết tật để có biện pháp khắc phục; trong khi đó phương Tây bằng âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, đã làm tha hóa, biến chất một bộ phận cán bộ, đảng viên. Qua đó, nã pháo vào nền chính trị cộng sản, bôi đen lịch sử, truyền thống cách mạng; tạo ra khoảng chân không về ý thức hệ trong Đảng Cộng sản và quần chúng nhân dân.

Theo đó, sự bạc nhược của một số cán bộ, đảng viên và sự chống trả yếu ớt của những người mác xít – lêninnít đã làm cho những người chống cộng sản hăng tiết hơn. Hơn thế, tư duy lý luận bị chủ nghĩa giáo điều tồn tại nhiều năm làm cho cùn, mòn đi và xa rời thực tiễn cuộc sống. Đây là cơ hội “ngàn năm có một” để chủ nghĩa cơ hội, xét lại trồi lên, nhanh chóng, công khai toàn bộ hệ quan điểm sai lầm và phản động, chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin.

Với bản chất cải lương, chủ nghĩa cơ hội, xét lại đã đem hệ tư tưởng xã hội – dân chủ hiện đại thay thế hệ tư tưởng Mác – Lênin và mưu toan “kết hợp hệ tư tưởng xã hội – dân chủ hiện đại với hệ tư tưởng Mác – Lênin. Đây không phải là sự làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác – Lênin mà là loại bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, thay thế bằng chủ nghĩa xã hội – dân chủ tư sản kiểu “lang băm”. Điều đó đặt ra vấn đề cấp thiết phải bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin hiện nay; phải đẩy mạnh đấu tranh vạch trần “sự giả nhân giả nghĩa” của chủ nghĩa xã hội – dân chủ.

Trong tình thế này, các Đảng Cộng sản còn lại tự biết mình phải nghiêm túc rút kinh nghiệm, nắm chắc quyền lãnh đạo, gắn bó chặt chẽ với nhân dân; đẩy mạnh đổi mới, cải cách, phát triển kinh tế – xã hội; từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội để vững bước trên con đường cách mạng mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã vạch ra trước sự lừa bịp vẫn còn tiếp tục, thậm chí có lúc sẽ khắc nghiệt hơn khi cái xấu lên ngôi và sự chống phá từ nhiều phía.  

Với khẩu hiệu “CNXH – không cần nữa!”, “Tự do chứ không phải là CNXH”, những người theo đuôi chủ nghĩa xã hội – dân chủ đã tự biến mình thành những kẻ chống cộng khét tiếng. Đó là sự phản bội hoàn toàn và công khai trắng trợn, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin đứng trước những thử thách mới, rất nghiêm trọng; buộc những người cộng sản phải tự đổi mới, bổ sung, phát triển toàn diện hệ tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên con đường đấu tranh xây dựng một chế độ xã hội văn minh tiến bộ – xã hội XHCN.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Một trong những yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải đập tan âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ do các thế lực thù địch chủ mưu. Bởi vì, khác với cuộc chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh, sự nguy hại của “diễn biến hòa bình” là chĩa thẳng nòng súng vào nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi hạ bệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Kẻ thù của chúng ta đã và đang tìm mọi cách đột phá vào khâu chủ yếu này: bôi nhọ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mưu toan làm cho gần 100 triệu dân Việt Nam hoài nghi, bi quan, rồi từ bỏ toàn bộ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, thay máu cho hệ tư tưởng mác xít bằng hệ tư tưởng của giai cấp tư sản. Vì vậy, bằng mọi cách, họ đang xúc tiến quá trình tạo ra sự hỗn loạn về tư tưởng trong Đảng, Nhà nước và đội ngũ trí thức, lực lượng nòng cốt, đóng vai trò chủ chốt trong bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự hỗn loạn này lớn đến mức sẽ tạo ra sự tan rã về tư tưởng, tổ chức và cán bộ trong Đảng, Nhà nước Việt Nam; làm cho hệ thống công cụ bảo vệ chế độ XHCN bị vô hiệu hóa, bị “trói tay, trói chân” cho dù mạnh nhưng bất lực. Bài học xương máu có thể rút ra trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là tuyệt đối không mắc mưu “diễn biến hòa bình”; phải đánh bại các hướng tiến công của địch vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh “từ sớm, từ xa”.

Muốn vậy, trước hết phải bảo vệ những nguyên lý cơ bản và khẳng định bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giá trị và ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn của những nguyên lý đó; chống lại sự xuyên tạc cả về Triết học Mác – Lênin, Kính tế Chính trị học Mác – Lênin, CNXH khoa học và các bộ môn khoa học lý luận chính trị khác. Đó là việc làm cần thiết nhưng không chỉ có vậy, không chỉ dừng lại ở các nhiệm vụ ấy.

Ngày nay, muốn bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách hiệu quả, nhất thiết phải cập nhật thông tin mới, bổ sung, phát triển và đổi mới toàn diện, đồng bộ cả ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghĩa là ngoài việc tái khẳng định những chân lý khoa học, cách mạng mà các nhà kinh điển đã đưa ra; chúng ta còn phải còn phải đúc kết, khái quát lý luận mới; những điều không có sẵn trong các tác phẩm kinh điển.

Cùng với đó là đề cao sức sáng tạo, chỉ ra được những hạn chế, khuyết điểm đã và đang hằng ngày tác động đến quần chúng; phải phê phán, vạch trần tính chất vô căn cứ và có hại to lớn của các quan điểm sai trái, thù địch. Không để hệ tư tưởng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bị dao động, ngả nghiêng. Ý nghĩa của thắng lợi mới trong thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là giành thắng lợi toàn diện trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Rò ràng là, đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới vừa phải tự phê phán và đánh giá lại các giá trị của chính những người cộng sản đối với các di sản lý luận của các nhà kinh điển; phải chỉ ra cái gì đến nay vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo thực tiễn; cái gì đúng vào thời các ông nhưng ngày nay không còn phù hợp; cái gì không đúng hoặc chưa đầy đủ, còn thiếu, rất cần phải bổ sung.

Như vậy, những người cộng sản phải làm một sự phê phán “kép”: vừa phê phán bản thân mình và phê phán những kẻ phê phán chúng ta. Đây là hai nhiệm vụ quan trọng, nhất thiết phải tiến hành đồng thời, bởi nó đan cài vào nhau, tác động và phụ thuộc lẫn nhau; dẫu biết điều này là vô cùng khó khăn, phức tạp nhưng buộc chúng ta phải tiến hành song song.

 Sự phê phán “kép” này không phải bây giờ chúng ta mới tiến hành, nó đã được V.I. Lênin tiến hành thành công trước đây khi phê phán chủ nghĩa cơ hội Quốc tế II, đã bổ sung, hoàn thiện và phát triển cả ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác – Lênin.

Khác những người theo chủ nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại; chúng ta phê phán để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng nó lên tầm cao mới, không phải phê phán để đánh đổ nó. Cho nên chúng ta phải đứng vững trên lập trường thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, càng không phải trên lập trường của giai cấp tư sản để phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Điều đó đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu lại đầy đủ, chính xác, thận trọng tất cả các luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống, khách quan, trung thực. Qua đó, phát hiện nhũng khiếm khuyết và bất cập để tiếp tục bổ sung, phát triểt học đó cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới.

Điều đó thêm một lần tái khẳng định vị trí, vai trò vô cùng to lớn và ý nghĩa lý luận, thực tiễn đặc biệt quan trọng của việc tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù dịch trong tình hình mới. Đó là trách nhiệm của chúng ta./.

Dương Phương Duy

 Là một giáo sư, ủy viên các hội đồng lớn về văn học của Trung ương… nhưng lúc về già ông lại có những nhận định, đánh giá rất ấu trĩ, nhiều nội dung đã thể rõ bản chất phản động, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam…




Vừa qua, trên trang Facebook của Việt Tân có đăng bài bài thơ “không đầu, không cuối” của người có tên là Trần Đình Sử nói xấu mối quan hệ hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc. Vậy Trần Đình Sử là ai? Có đóng góp gì cho đất nước hay chỉ là những phần tử suy thoái “tư tưởng” …?

Nói đến Trần Đình Sử (sinh năm 1940), quê gốc (Quảng Phú, Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế), nguyên là một giáo sư, tiến sĩ Lý luận Văn học, công tác tại Trường Đại học Sư phạm Vinh, Đại học Sư phạm Hà Nội. Đã từng là Ủy viên Hội đồng lý luận phê bình Hội nhà văn học Việt Nam. Đồng thời cũng là thành viên của hội đồng thẩm định sách giáo khoa lớp 1 đang gây tranh cãi hiện nay.

Là một giáo sư, ủy viên các hội đồng lớn về văn học của Trung ương, mà có nhận thức ấu trĩ lúc về già như vậy, một trong những trí thức suy thoái về tư tưởng chính trị “đang công tác nói khác, lúc nghỉ hưu nói khác”. Những phát ngôn của ông thông qua bài thơ trên trang mạng “Việt Tân” đã thể rõ bản chất phản động, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trên rất nhiều trang thông tin điện tử nếu như ai đó muốn tìm hiểu về nhân vật này thì thật không khó khi có những dữ liệu về ông với những việc làm sai trái. Ví dụ, trên trang “Cánh cò” 14/10/2020 có bài viết “Về chuyện Giáo sư Trần Đình Sử phản giáo”, trong đó ghi rõ: “Trần Đình Sử là một trong 72 kẻ nhân sĩ trí thức thoái hóa đòi sửa đổi Hiến pháp 1992, trong đó, đòi đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN), đòi đổi tên nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN, đòi phi chính trị hóa các lực lượng vũ trang Nhân dân. Trần Đình Sử từng mượn tác phẩm “Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hạ bệ chế độ và nền tư pháp của ta ngày nay. Cách đây mấy tháng, Trần Đình Sử còn công khai ủng hộ các đối tượng trong “tổ Đồng Thuận” và các luật sư bào chữa cho các bị cáo tại phiên tòa”…

Hiện nay, chúng ta đều biết mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc là mối quan hệ chính thức, mật thiết, là mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, hai nước đã xác định phương châm 16 chữ thúc đẩy quan hệ hai nước trong thế kỷ 21 là “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và hai bên đã thỏa thuận đưa hai nước trở thành “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt””. Tính đến tháng 10/2022 Trung Quốc xếp thứ 4, trong 103 các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Đồng thời Trung Quốc là thị trường nhập khẩu hàng lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch ước tính 8,1 tỉ USD tính đến tháng 1/2023.

Do vậy, không thể nói mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc là bất lợi, là mất nước như cách hiểu sai lầm của Trần Đình Sử được. Đây là mối quan hệ hợp tác, đôi bên cùng có lợi, vì hòa bình, ổn định và phát triển. Chúng ta cần nâng cao cảnh giác và kịch liệt lên án trước những luận điệu xuyên tạc, lập lờ của những phần tử cơ hội chính trị như Trần Đình Sử, lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận để bóp méo các mối quan hệ, hợp tác quốc tế của Việt Nam./.

TRƯỜNG. SƠN - Nguồn: Đấu trường Dân chủ

 

Sau khi hà hơi tiếp sức, xúi giục những phần tử trong nước lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo kích động, lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin tụ tập gây rối trật tự an ninh tại một số địa phương miền núi, thời gian gần đây thông qua mạng internet các thế lực thù địch lại ra sức tuyên truyền xuyên tạc các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số của Nhà nước Việt Nam. Việc Việt Nam áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những phần tử cầm đầu, quá khích trong các vụ việc là hoàn toàn đúng pháp luật và công ước quốc tế. Thế nhưng các thế lực thù địch vẫn vu cáo rằng Việt Nam “đàn áp dân tộc”. Lợi dụng những khó khăn trong đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, họ xuyên tạc, bịp đặt rằng “ở Việt Nam, quyền bình đẳng giữa các dân tộc không được bảo đảm”… Thực tiễn những gì đã và đang diễn ra ở Việt Nam đã chứng minh rõ giọng điệu trên là không khách quan, thiếu thiện chí nhằm dụng ý xấu kích động, chống phá Việt Nam.

Nhân dân ta không bao giờ quên những năm tháng đất nước bị xâm lăng, chủ nghĩa thực dân, đế quốc áp dụng những chính sách đi ngược lại với nguyện vọng và quyền của các dân tộc ở Việt Nam như “chia để trị”, “dùng người Việt trị người Việt”, kích động gây đối đầu giữa dân tộc này với dân tộc khác…. Mục đích của những hành động đó không gì khác là nhằm kìm hãm, trói buộc các dân tộc trên đất nước Việt Nam trong vòng luẩn quẩn của đói nghèo, lạc hậu và dốt nát, chia rẽ mối đoàn kết giữa các dân tộc, phục vụ cho mưu đồ thống trị lâu dài của chúng.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14%, hầu hết đồng bào các dân tộc sinh sống ở địa bàn miền núi, biên giới… nơi có vị trí chiến lược cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Nhận thức rõ tầm quan trọng ấy nên quan điểm của Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là rất rõ ràng, muốn có bình đẳng dân tộc thì phải giành cho được độc lập dân tộc. Quyền bình đẳng thực sự giữa các dân tộc chỉ được xây dựng, thực hiện trên nền tảng độc lập dân tộc. Sau khi giành được độc lập, ngay từ khi mới ra đời Nhà nước Việt Nam đã khẳng định: “Giải quyết vấn đề dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng”. Nguyên tắc “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển” luôn được Nhà nước Việt Nam thể hiện nhất quán trong hoạch định, thực hiện các chính sách dân tộc. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta; giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; công tác dân tộc là một bộ phận quan trọng của đường lối cách mạng Việt Nam; chính sách dân tộc là một bộ phận hữu cơ trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta

Chủ trương nhất quán và đúng đắn về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: đoàn kết, bình đẳng, thương yêu, tôn trọng giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc; đồng thời, giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc; chống kỳ thị dân tộc, nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Suốt mấy chục năm qua, những thành tựu đạt được đã chứng tỏ tính đúng đắn trong đường lối chính sách mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra.  

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nhất là sau khi miền Bắc được giải phóng, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách hết sức cụ thể nhằm diệt giặc đói, diệt giặc dốt…. để thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, chăm lo cho đồng bào các dân tộc phát triển về kinh tế, văn hóa, giáo dục và y tế… từng bước cải thiện đời sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ về mọi mặt.”

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mặc dù phải dồn sức cho sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước nhưng Nhà nước Việt Nam vẫn luôn quan tâm thực hiện tốt chính sách dân tộc. Thực tiễn đã chứng minh, trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam không hề có chuyện dân tộc lớn đi áp bức, bóc lột dân tộc nhỏ, quan hệ giữa các dân tộc với nhau là anh em, ruột thịt một nhà. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xơđăng hay Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.” Chính tinh thần đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc là một nhân tố quan trọng làm nên thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất nước nhà.

 Sau giải phóng, đặc biệt trong hơn 35 năm đổi mới, thực tế đã cho thấy ở Việt Nam quyền của các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số luôn được bảo đảm, các chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn hướng tới ưu tiên cao nhất để thực hiện quyền phát triển của các dân tộc. Với những điều kiện thuận lợi mở ra đời sống của đồng bào các dân tộc Việt Nam được cải thiện trên nhiều mặt, mọi người đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm đối với đất nước. Các dân tộc Việt Nam càng đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Không phải ngẫu nhiên mà mới đây, mà Liên Hiệp Quốc đã đánh giá cao việc Việt Nam coi cộng đồng các dân tộc thiểu số là bộ phận cấu thành của dân tộc Việt Nam. Qua khảo sát thực tế, Liên Hiệp Quốc hoan nghênh quyết tâm chính trị, các chính sách, biện pháp và chương trình của Chính phủ Việt Nam nhằm bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trên mọi lĩnh vực, nhất là những nỗ lực thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế – xã hội giữa đồng bào dân tộc thiểu số với đồng bào Kinh. Liên Hiệp Quốc ghi nhận và đánh giá cao những kinh nghiệm về xóa đói, giảm nghèo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số của Việt Nam…

Một trong những ưu việt của chế độ mới ở Việt Nam là giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc. Đồng bào các dân tộc Việt Nam rất tự hào trước những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN của đất nước sau hơn 35 năm đổi mới. Thực tế tình hình dân tộc của Việt Nam hiện nay là tốt đẹp hơn bao giờ hết, các dân tộc đang cùng đồng bào cả nước đưa Nghị quyết Đại hội XIII vào cuộc sống, thực hiện mục tiêu: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”… Thế nhưng dân tộc, tôn giáo luôn là vấn đề mà các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Thủ đoạn của các thế lực thù địch ngày càng thâm độc, tinh vi, đê tiện hơn. Họ tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc. Đặc biệt họ triệt để lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của ta trong thực hiện chính sách dân tộc để kích động gây mâu thuẫn, chia rẽ, tạo cớ can thiệp. Chúng lợi dụng những vấn đề dân tộc để kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, ly khai; kích động, chia rẽ quan hệ giữa các dân tộc hòng làm cho sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc suy yếu. Chúng tập trung phá hoại các cơ sở kinh tế, xã hội, mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng bào các dân tộc chống đối chính quyền, vượt biên trái phép, di dịch cư tự do, gây mất ổn định chính trị, xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để vu khống Việt Nam đàn áp các dân tộc vi phạm dân chủ, nhân quyền hòng cô lập, làm suy yếu cách mạng Việt Nam. Chúng tìm mọi cách để xây dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài; tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản động trong các dân tộc ở trong nước hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam….

 Những giọng điệu vu cáo, xuyên tạc, bịa đặt mà chúng đang rêu rao trên mạng internet cũng nằm trong những chiêu thức đó và càng cho thấy âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch là rất nham hiểm, xảo quyệt. Nhưng chúng sẽ không thể làm gì được bởi Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mặt khác nhân dân Việt Nam luôn đề cao cảnh giác, chủ động tiến hành đồng bộ các biện pháp tiến công làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch./.

Quốc An - Nguồn: Hương Sen Việt

 Suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống là căn bệnh vô cùng nguy hiểm, đe dọa đến sự tồn vong của chế độ. Trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, với phương châm lấy xây để chống, phòng bệnh hơn chữa bệnh, ngăn chặn sự lây lan, phát triển của căn bệnh suy thoái trong giới trẻ đang đặt ra những yêu cầu, thách thức mới...


Khi người trẻ mắc bệnh suy thoái

Thời gian gần đây, dư luận tích cực trên không gian mạng bày tỏ bức xúc trước việc nhiều đối tượng phản động lưu vong ở nước ngoài thường xuyên lên mạng xã hội tung tin xuyên tạc, nói xấu đất nước, xúc phạm danh dự lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gây rối an ninh chính trị. Điều đáng bàn ở đây là đại đa số những đối tượng phản động này đều còn trẻ. Trước khi quay lưng, phản bội Tổ quốc, họ từng là những trí thức trẻ, từng có thời gian là công chức, viên chức, công tác trong các cơ quan, đơn vị thuộc hệ thống chính trị ở một số địa phương. Do bất mãn với tổ chức, non kém về tư tưởng chính trị, bị chủ nghĩa cá nhân chi phối, họ đã bị căn bệnh suy thoái tấn công. Từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, họ đã “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, biến mình trở thành những con rối cho các thế lực thù địch ở hải ngoại giật dây. Sau khi ra nước ngoài sống lưu vong, chúng trở thành những kẻ phản bội, càng ngày càng điên cuồng thực hiện các hành vi phản quốc.


Tranh minh họa: Tạp chí Tuyên giáo.

Dù chỉ là những thành phần cá biệt, nhưng thực trạng này cho thấy khi căn bệnh suy thoái trẻ hóa, mức độ nguy hiểm đối với môi trường chính trị và đời sống xã hội là vô cùng lớn. Hằng ngày, hằng giờ, chúng ra rả các luận điệu phản động trên không gian mạng làm cho một bộ phận giới trẻ trong nước bị tác động, ảnh hưởng bởi tư tưởng thù địch, dẫn đến dao động, bi quan, phai nhạt niềm tin.

Nhìn rộng ra, sâu hơn những vụ án tham nhũng lớn được đưa ra ánh sáng công lý thời gian qua, chúng ta thấy hành vi tham nhũng, suy thoái đều liên quan đến những cán bộ có chức quyền. Cán bộ có chức quyền càng to, ảnh hưởng của suy thoái càng lớn. Tuy nhiên, để đến lúc phải điều tra, xử lý thì đó là giải pháp “trị bệnh”. Làm sao để cán bộ, đảng viên không “nhúng chàm” thì phải coi trọng “phòng bệnh”, ngăn ngừa các mầm mống dẫn đến suy thoái ngay từ khi còn trẻ.

Biểu hiện phổ biến của tình trạng trẻ hóa bệnh suy thoái là sự thờ ơ, bàng quan với lợi ích dân tộc, chỉ tập trung lo kiếm tiền, không quan tâm đến các phong trào hành động cách mạng, phong trào thi đua yêu nước, không thiết tha vào Đảng. Đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trẻ thì đó là biểu hiện né tránh đấu tranh, dĩ hòa vi quý, mũ ni che tai, tư tưởng cầu an, lười học chính trị, lười nghiên cứu nghị quyết... Thực trạng này ở một bộ phận không nhỏ người trẻ đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, đó là “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”. Khi một người trẻ bị hổng kiến thức lý luận chính trị, không được bồi đắp tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đến nơi đến chốn thì đến lúc anh ta giàu lên, rất dễ trở thành những “trọc phú” thời đại mới. Khi những “trọc phú” ấy tìm cách “chui” vào hệ thống chính trị để thăng tiến thì nguy hại cho tổ chức đảng, cho vận mệnh chính trị của đất nước là rất khó lường. Thực tế đã chứng minh không ít người giàu có sau khi có chân trong hệ thống chính trị, hành vi kiểu “trọc phú” của họ đã gây ra những hệ lụy phức tạp cho tổ chức. Đối với những người trẻ “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”, từ suy thoái đạo đức, lối sống đến suy thoái tư tưởng chính trị là khoảng cách rất mong manh. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII đã nêu rõ: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc...

Không thể cứ hô hào chung chung

Ở phường 14, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Thôn được coi là một trong những người rất có uy tín. Ông là Anh hùng LLVT nhân dân, từng hoạt động tình báo trong lòng địch. Sau khi thực hiện thành công phi vụ cài bom cho nổ tung kho vũ khí lớn của địch ở sân bay Biên Hòa năm 1972, ông bị chỉ điểm và bị địch bắt. Trong thời gian bị giam cầm tại khám Chí Hòa (Sài Gòn), ông Thôn nhiều lần chạm mặt những tướng cướp khét tiếng như Điền Khắc Kim, Lâm “chín ngón”...  Danh tiếng của những “đại ca” giang hồ này khiến bất cứ tù nhân nào cũng e sợ, nhưng với Nguyễn Văn Thôn thì ngược lại. Khi biết ông là tác giả của vụ nổ long trời lở đất ở sân bay Biên Hòa, ngay cả các “đại ca” giang hồ cũng bày tỏ sự thán phục, kính nể. “Tôi chẳng phải là người có võ nghệ cao cường gì, nhưng họ nể là vì mình có bản lĩnh. Người có bản lĩnh thì ở đâu, lúc nào cũng giữ được vị thế, giá trị của mình, kể cả khi đứng trước giang hồ cộm cán. Bản lĩnh ấy phải thông qua giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng mới có được. Thiếu và yếu bản lĩnh thì càng làm to càng dễ “chết”. Tiêu cực, suy thoái là từ trong suy nghĩ, tư duy mà ra. Đổ lỗi do cơ chế, khách quan chỉ là cách ngụy biện của người kém bản lĩnh. Ngụy biện cho cái sai cũng là một dạng suy thoái”, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Thôn “chốt” như vậy khi chúng tôi phỏng vấn. Những năm gần đây, ông Thôn luôn là nhân tố “truyền lửa” cho các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương. Cấp ủy, chính quyền và các cơ quan, đoàn thể coi ông là vốn quý trong công tác giáo dục, bồi đắp lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ.

Dẫn một câu chuyện cụ thể như vậy để thấy, giáo dục, tuyên truyền, xây dựng bản lĩnh chính trị nhằm ngăn ngừa nguy cơ suy thoái trong giới trẻ phải thực hiện ngay từ cơ sở, thông qua những việc làm, chương trình cụ thể. Nếu chỉ tuyên truyền kiểu hô hào chung chung, rất khó để đưa thông điệp, tư tưởng thấm vào tư duy người trẻ. Bởi, trong kỷ nguyên 4.0, sự tiếp nhận, sàng lọc, đào thải thông tin diễn ra rất gay gắt. Chỉ những thông tin thực sự hấp dẫn, có ích, có sức thuyết phục mới có sức mạnh cảm hóa. Tìm những nhân tố tích cực, điển hình, đặc biệt là những người có uy tín trong cộng đồng dân cư để làm gương giáo dục là cách làm không mới, nhưng luôn luôn đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đổi mới cách làm, thực hiện bằng trách nhiệm, tâm huyết cao nhất mới mong có kết quả.

Vài dẫn chứng từ thực tiễn

Ngày 22-3, Ban Đại diện Báo Quân đội nhân dân tại TP Hồ Chí Minh nhận được thư mời của Quận ủy quận 7, TP Hồ Chí Minh mời tham dự cuộc tọa đàm giữa Thường trực Quận ủy với bí thư, cấp ủy chi bộ chung cư và đại biểu cán bộ, đảng viên trên địa bàn quận. Sự kiện sẽ diễn ra vào ngày mai (24-3). Nhận thấy đây là hoạt động rất hữu ích, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với đồng chí Võ Khắc Thái, Bí thư Quận ủy quận 7. Đồng chí Võ Khắc Thái cho biết: Cuộc tọa đàm nhằm tìm giải pháp kiện toàn, phát triển tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của chi bộ đảng, phát huy vai trò nòng cốt của cán bộ, đảng viên ở các khu chung cư trên địa bàn quận. Quận 7 là địa bàn có rất nhiều khu chung cư. Cộng đồng dân cư ở các khu chung cư đa số là người trẻ, trong đó có nhiều cán bộ, đảng viên. Nhận thức rõ vai trò của chi bộ đảng và cán bộ, đảng viên ở các chung cư, lãnh đạo quận chủ trương đẩy mạnh các hình thức, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các chi bộ chung cư vững mạnh. Chi bộ sát cánh cùng Ban quản trị chung cư triển khai các hình thức, biện pháp quản lý, tuyên truyền pháp luật, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng đến với mọi cán bộ, đảng viên và người dân. Đây là một trong những hình thức sinh động, hiệu quả để đưa nghị quyết của Đảng thấm sâu vào đời sống xã hội. Thông qua các hình thức tọa đàm để lan tỏa tinh thần, thông điệp, ý nghĩa giáo dục đến với cộng đồng dân cư nhằm bồi đắp lý tưởng cách mạng, thiết thực phòng, chống suy thoái trong giới trẻ...

Đây là một dẫn chứng sinh động từ thực tiễn. Chung cư là một đặc trưng của đời sống xã hội ở các đô thị lớn. Công tác quản lý nhân khẩu, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội không thể tách rời công tác giáo dục, tuyên truyền chính sách, xây dựng môi trường văn hóa. Đặc trưng đó đã tạo môi trường thuận lợi để cấp ủy địa phương đẩy mạnh xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là chi bộ chung cư.

Các hoạt động tọa đàm đã được Quận ủy quận 7 chỉ đạo, triển khai nhiều lần trong hệ thống chính trị các cấp và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, trường học... trong thời gian qua. Những hình thức hoạt động tương tự như trên cũng đã được cấp ủy ở nhiều địa phương, đơn vị tổ chức. Trực tiếp tham dự và theo dõi các hoạt động này, chúng tôi nhận thấy đó là không gian, môi trường được nhiều người quan tâm. Với tinh thần dân chủ, thẳng thắn, các cuộc đối thoại, tọa đàm giúp cấp ủy, người lãnh đạo các cấp nắm chắc thực tế từ cơ sở, qua đó kịp thời điều chỉnh, bổ sung chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo. Trong môi trường học đường, doanh nghiệp, tổ chức Đoàn Thanh niên các cấp, những hình thức như: Thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng tiếng Anh; thi Olympic Triết học, tư tưởng Hồ Chí Minh; thi “Rung chuông vàng” tìm hiểu lịch sử Đảng... rất được bạn trẻ yêu thích. Đó là những cách làm năng động, sáng tạo để dẫn dắt người trẻ trở thành chủ thể bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó cũng là cách “lấy xây để chống”, góp phần ngăn chặn tình trạng trẻ hóa bệnh suy thoái./.

PHAN TÙNG SƠN - Nguồn: QĐND

 

Vừa qua, trên trang “Vietnamthoibao” đăng tải bài viết: “Vì sao quyền con người, quyền công dân tại Việt Nam là quyền treo”, cho rằng quyền con người, quyền công dân tại Việt Nam thực tế bị Hiến pháp hạn chế rất nhiều, người dân vẫn không có quyền. Thực chất đây là sự xuyên tạc quyền con người, quyền công dân của Việt Nam thời báo.

Thứ nhất, Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định, quyền con người, quyền công dân  là mục tiêu, động lực của sự phát triển, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, từ chính trị, tư tưởng, văn hóa đến kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng… Bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và bảo đảm quyền lực của nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân do nhân dân quản lý và điều hành xã hội. Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm, thực thi theo Hiến pháp và pháp luật. Các quyền này gồm: Quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền có nơi ở hợp pháp, quyền tự do cư trú, tự do kinh doanh, tự do đi lại, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận và báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình, tự do nghiên cứu, sáng tác, tự do lựa chọn nghề nghiệp mưu sinh, tự do hôn nhân…Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Bất cứ ai vi phạm các quyền này đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Vì vậy, Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết. Ở Việt Nam quyền con người, quyền công dân  được bảo đảm bằng Hiến pháp, Pháp luật.

Thứ hai, quyền con người là của cá nhân nhưng không thể đối lập, loại trừ, hay xâm hại đến quyền của cá nhân khác hay lợi ích của cộng đồng. Trong những trường hợp cần thiết, quyền con người, quyền công dân có thể bị giới hạn. Luật nhân quyền quốc tế thừa nhận quyền con người trong một số trường hợp cần phải được hạn chế nhằm đảm bảo trật tự xã hội. Trong việc thực thi các quyền và tự do, mọi người phải chịu những hạn chế do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm sự thừa nhận, tôn trọng quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng trong một xã hội dân chủ. Hạn chế quyền con người trong Hiến pháp của các quốc gia chính là đảm bảo việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Hạn chế quyền con người là nhằm công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền của người khác, đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng trong một xã hội dân chủ. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam khẳng định, quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân, điều này khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền và nghĩa vụ, vừa đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện quyền của người này không thể là sự phủ nhận hay xâm phạm đến quyền của người khác. Việc tôn trọng các quyền tự do của mỗi người phải đặt trong mối quan hệ với quyền tự do của người khác. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Quyền lợi của xã hội, của cá nhân khác sẽ bị xâm phạm nếu quyền con người không bị hạn chế. Việc giới hạn quyền con người trong khuôn khổ pháp luật là nền tảng của xã hội pháp quyền, trong đó quyền của một người chỉ có thể được bảo đảm khi quyền đó không xâm phạm đến quyền của người khác, lợi ích và đạo đức chung của xã hội. Hạn chế quyền con người là việc làm cần thiết nhằm đảm bảo quyền của chủ thể này không xâm phạm đến quyền chủ thể khác, xét về bản chất hạn chế quyền con người là giải quyết sự cân bằng giữa quyền lợi cá nhân với quyền lợi của người khác, của xã hội.

Suy cho cùng, giới hạn quyền con người cũng nhằm mục đích bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Việc Việt Nam thời báo lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xuyên tạc Hiến pháp, Pháp luật Việt Nam là hoàn toàn sai trái. Do đó, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh vạch rõ bộ mặt xảo trá của chúng để nhân dân hiểu rõ và cảnh giác./.

Nhân văn Việt

 Nhiều năm qua, các thế lực thù địch, phản động, các cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam đã câu kết với các phần tử cực đoan để chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tôn giáo, thường xuyên lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, xuyên tạc tình hình tôn giáo, tạo ra bức tranh méo mó về vấn đề tự do tôn giáo tại nước ta.



Phó Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ Nguyễn Tiến Trọng giới thiệu về sự cần thiết của việc xuất bản Sách Trắng về tôn giáo

Mới đây, ngày 9/3/2023, Bộ Thông tin và Truyền thông và Ban Tôn giáo Chính phủ đã ra mắt Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Cuốn sách cung cấp những thông tin cơ bản về tôn giáo ở Việt Nam; chính sách tôn giáo ở Việt Nam; thành tựu cũng như thách thức của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Qua đó khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.

Sau khi Bộ Thông tin và Truyền Thông, Ban Tôn giáo Chính phủ ra mắt Sách trắng, ngay lập tức một số trang báo điện tử như VOA, RFI, RFA… cùng nhiều trang mạng của các tổ chức, cá nhân chống đối đã có những bài viết, bình luận sai trái, đánh giá một cách tiêu cực về cuốn sách này. Họ đưa ra những bài viết cho rằng, việc cho ra đời cuốn sách này là “bức bình phong” nhằm che đậy các vi phạm kéo dài tại Việt Nam, nguyên nhân đã khiến Washington đưa Hà Nội vào danh sách theo dõi đặc biệt về tôn giáo! Những đánh giá này được dựa trên nhận định của số đối tượng cực đoan, chống đối trong các tôn giáo như Thích Vĩnh Phước, một thành viên thuộc tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất; linh mục Đinh Hữu Thoại, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam; Lê Quang Hiển, thuộc tổ chức Phật giáo Hòa Hảo thuần túy… Các cá nhân trên đều là thành viên của tổ chức bất hợp pháp với danh xưng “Hội đồng Liên tôn Việt Nam”.       

Đặc điểm chung của các trường hợp trên là đều thuộc các phần tử chống đối, có quá trình tu tập kém, ít chăm lo cho việc đạo nên uy tín, ảnh hưởng trong giáo hội xếp hạng thấp, năng lực yếu kém, không được trọng dụng. Từ đó, số này tỏ ra bất mãn và đã ly khai khỏi các tôn giáo, tổ chức tôn giáo, sau đó liên kết lại với nhau thành lập một tổ chức bất hợp pháp mang danh nghĩa tôn giáo để phục vụ ý đồ, động cơ riêng. Cho nên, hầu hết việc làm của họ đều mang mưu đồ, lợi ích cá nhân chứ không đại diện cho bất kỳ một tổ chức tôn giáo nào, không vì lợi ích chung của cộng đồng. Do đó, những phát ngôn, nhận định mà họ chia sẻ với phóng viên của các trang báo điện tử nêu trên cũng chỉ mang tính chủ quan, phiến diện một chiều, mang tính thù địch với Việt Nam của một nhóm nhỏ có chung lợi ích. Những nhận xét, đánh giá của số cá nhân chống đối nêu trên không thể coi là “đại diện cho tiếng nói tôn giáo”, càng không có giá trị tham khảo. Thế nhưng, bấy lâu nay, phóng viên của các trang báo điện tử VOA, RFI, RFA… lại viện dẫn những nhận định thiếu cơ sở, những đánh giá xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo của các đối tượng trên.

Trong khi đó, những nội dung trong Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Công tác tôn giáo trong tình hình mới” và gần đây là Chỉ thị 18-CT/TW, ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị về “Công tác tôn giáo trong tình hình mới” cùng với hàng chục văn bản pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo đã thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đến nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của nhân dân. Nhờ đó mà số lượng chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự ngày càng tăng, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân được đảm bảo tốt hơn, các cơ sở thờ tự ngày càng được khang trang, đẹp đẽ, quan hệ quốc tế của các tôn giáo ngày càng được mở rộng, việc sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam được công khai theo quy định của pháp luật...

Đặc biệt, các hoạt động tôn giáo lớn đã trở thành lễ hội của người dân Việt Nam như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 3 lần đăng cai tổ chức Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc VESAK, trong đó năm 2019 được tổ chức tại chùa Tam Chúc (Hà Nam) với trên 1500 đại biểu quốc tế đến từ 120 quốc gia, vùng lãnh thổ cùng hàng vạn tăng, ni, phật tử về dự; các lễ hội của Tin Lành như ngày lễ 100 năm Tin Lành đến Việt Nam được tổ chức trang nghiêm. Đặc biệt là ngày Lễ Giáng sinh của người Công giáo ở khắp mọi miền đất nước cũng đã trở thành một lễ hội thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân Việt Nam... Vừa qua, giáo tỉnh Hà Nội cũng đã tổ chức thành công Đại hội Giới trẻ tại Khu Di tích lịch sử Đền Hùng với sự tham gia của Tổng Giám mục Marak zelewki – Đặc phái viên không thường trú của Tòa Thánh Vatican tại Việt Nam cùng các vị lãnh đạo giáo hội và khoảng 15 nghìn giáo dân là thanh niên, học sinh, sinh viên người Công giáo... Đây chính là những minh chứng sống động, chân thực về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, trong các hội thảo quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo được tổ chức tại Việt Nam hay trong các lần đón tiếp các đoàn lâm thời, các tổ chức nhân quyền tôn giáo quốc tế vào Việt Nam tìm hiểu chính sách, pháp luật tôn giáo của Việt Nam như: Viện Can dự Toàn cầu Mỹ (IGE), Tập đoàn truyền thông (WAZ) của Đức, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF)..., Việt Nam đều chủ động cung cấp các thông tin về tình hình tự do tôn giáo và chính sách, pháp luật của tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, thẳng thắn trao đổi các vấn đề mà dư luận quốc tế quan tâm. Từ đó, giúp các tổ chức này thấy rõ thực tiễn đời sống tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, phong phú cũng như cho thấy chính sách, pháp luật đã đảm bảo quyền tự don tôn giáo chính đáng của nhân dân.

Nếu như thực sự khách quan thì phóng viên của VOA, RFI, RFA, BBC… cần dẫn chứng thêm những nhận định, quan điểm của những vị lãnh đạo trong các tổ chức giáo hội đã được Nhà nước ta công nhận tư cách pháp nhân, họ mới chính là người đại diện cho giáo hội, cho lợi ích của đại đa số chức sắc, tín đồ trong các tôn giáo Việt Nam. Thế nhưng, bấy lâu nay, khi lấy thông tin đánh giá, các trang thông tin báo chí nói trên luôn phớt lờ và bỏ qua thực tế này và một mực trung thành với quan điểm của các đối tượng chống phá. Do đó, một lần nữa cần khẳng định, việc phê phán Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam là một chiêu trò nhằm chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hòng phủ nhận những thành quả từ những chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Rõ ràng các đối tượng trong tổ chức “Hội đồng liên tôn Việt Nam” và các trang VOA, RFI, RFA… khi phê phán về cuốn Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam thực chất là một chiêu trò để biện hộ cho những luận điệu sai trái rằng Việt Nam không có tự do tôn giáo, xuyên tạc về tình hình, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta, qua đó lấy cớ phủ nhận chính sách của Đảng, Nhà nước và thành quả trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo cho người dân.

Tại buổi họp báo công bố Sách trắng, Phó Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ Nguyễn Tiến Trọng nêu rõ: Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, các tôn giáo ở Việt Nam đều có đóng góp nhất định cho đất nước trên nhiều phương diện của đời sống xã hội, đồng thời là một nhân tố xã hội và văn hóa tích cực góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Các tôn giáo du nhập từ bên ngoài cũng có quá trình tiếp biến với văn hóa Việt, tạo ra nét riêng của tôn giáo Việt Nam. Việt Nam là đất nước ôn hòa trong quan hệ giữa các tôn giáo; có truyền thống đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Việc chung sống hòa bình và bao dung giữa các tôn giáo cùng với tính nhân ái, nhân bản của con người và xã hội Việt Nam đã tạo ra một bức tranh sinh động về tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước bảo đảm sự đa dạng, hòa hợp và bình đẳng tôn giáo và không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Ở Việt Nam, các tôn giáo chung sống hài hòa, đoàn kết, gắn bó đồng hành với dân tộc, không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo tích cực tham gia các phong trào xã hội, từ thiện, xóa đói giảm nghèo, đóng góp thiết thực vào sự phát triển đất nước. Ngoài ra, Nhà nước cũng khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo phát huy nguồn lực tham gia các hoạt động an sinh xã hội. Vấn đề đất đai liên quan đến tôn giáo luôn được Nhà nước quan tâm giải quyết. Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo Hiến chương, Điều lệ và quy định pháp luật. Theo thông tin từ Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện nay, Việt Nam có trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số cả nước), hơn 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự. Nhà nước bảo đảm sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 14% dân số./.

Phạm Duy - Nguồn: CAND

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.