Đầu năm 1979 - chỉ vài tuần sau khi Mỹ chính thức công nhận nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và hai bên chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã lên đường đến thăm Hoa Kỳ. Mỹ và Trung Quốc chính thức phục hồi quan hệ ngoại giao vào ngày đầu tiên của năm 1979. Một tuần sau, quân đội Việt Nam tiến vào thủ đô Phnom Penh giúp người anh em Campuchia thoát hoạ diệt chủng và cũng chính là bảo vệ bản thân mình.



Ông Đặng nói để đáp trả sự bành trướng của Liên Xô, Bắc Kinh "thấy cần thiết kiềm hãm tham vọng của Việt Nam, cho họ một bài học hạn chế phù hợp". Người Mỹ cân nhắc rất kỹ và họ quyết định chọn Trung Quốc, đơn giản vì lúc đó Liên Xô được xem là anh cả của phe XHCN. Hơn nữa, mối quan hệ Xô - Trung rất căng thẳng, người Mỹ hợp tác với Trung Quốc hòng kiềm toả Liên Xô, Việt Nam và các nước Đông Âu. Đổi lại, Trung Quốc sẽ được mở rộng hợp tác với Mỹ, được tiếp cận trình độ khoa học kỹ thuật và là cơ hội để Trung Quốc phát triển đất nước, cả về chính trị, quân sự và kinh tế. 

Đặng Tiểu Bình khúm núm, cúi đầu trước Tổng thống Mỹ Jimmy Carter. Tất nhiên là Jimmy Carter rất sung sướng, hãnh diện và tự hào về điều đó. Thế nhưng cả Jimmy Carter và người Mỹ lúc đó đã không thể hiểu được cái kế của người Trung Quốc. Thời điểm đó, Trung Quốc chưa thể so sánh với Mỹ về mọi mặt và họ chọn cách cúi đầu, ẩn mình chờ thời. Lúc đó, Trung Quốc đang ở thế vừa đối đầu với Liên Xô và Mỹ. Nghĩa là lưỡng đầu thọ địch. Trung Quốc dựa vào Mỹ để chống Liên Xô, nhằm thoả mãn ước vọng làm "anh cả", vừa được tiếp cận tinh hoa của Mỹ và phương Tây. Đúng là nhất tiễn hạ song điêu!

Ngày 17/2/1979, Trung Quốc mang đại quân gần 60 vạn (600.000 quân) sang Việt Nam để “dạy cho Việt Nam một bài học”. Họ dùng chiến thuật biển người và rất tự tin có thể “sáng ăn cơm Bắc Kinh, chiều ăn cơm Hà Nội, tối ăn cơm Sài Gòn”, thế nhưng họ đã lầm, đã đánh giá quá thấp tinh thần và lực lượng của ta và kết quả là Trung Quốc mới là kẻ phải học ta những bài học xương máu. 

Binh pháp Tôn Tử viết: “Người giỏi dùng binh cần tránh nhuệ khí của địch, khi địch uể oải, mệt mỏi thì tấn công chúng. Đó là phương pháp đối phó với khí thế của địch, hay quân nghiêm chỉnh của ta đối phó với quân hỗn loạn của địch, lấy quân trấn tĩnh của ta đối phó với quân ồn ào của địch, lấy quân nhàn nhã của ta đối phó với quán mệt mỏi của địch, dùng phương pháp tiếp cận chiến trường của ta để đối phó với sự di chuyển từ xa tới của địch, lấy quân no đủ của ta mà đối phó vối quân đói khát của địch. Không nên đón đánh quân địch có đội hình chặt chẽ, không nên tiến công quân địch có thế trận nghiêm chỉnh…”

Binh Pháp là do người tàu viết ra, thế nhưng chính họ lại không chịu học tiền nhân của họ và chúng ta thì “biết địch biết ta trăm trận trăm thắng”. Những ngày đầu, Trung Quốc thế như chẻ tre, và họ bắt đầu ảo tưởng sức mạnh, trước khi bị chúng ta phản kích và tiêu diệt. Báo Quân đội Nhân dân tháng 4 năm 1979 ước lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người. Họ tháo chạy về nước mà chẳng dạy cho Việt Nam bài học nào ngoài việc quân Trung Quốc thảm sát nhân dân ta ở các tỉnh biên giới phía bắc, phá hoại nghiêm trọng cơ sở hạ tầng… 

1. NGUYÊN NHÂN:

Trung Quốc cay cú vì Việt Nam hợp tác toàn diện, là đồng minh của Liên Xô, mà Xô - Trung thì cơm không lành, canh không ngọt; chúng ta từ chối thẳng thừng việc ký hiệp ước chống Liên Xô.

Trung Quốc cay cú vì quân đội ta đánh tan Pôn Pốt, lực lượng tàn ác, diệt chủng do Trung Quốc nuôi dưỡng. Trung Quốc đã dùng kế “vây Ngụy để cứu Triệu”, đánh Việt Nam để bắt buộc quân chủ lực của chúng ta ở Campuchia phải quay về ứng cứu (kế này ngày xưa Tôn Tẫn dùng để đánh bại và giết Bàng Quyên ở gò Mã Lăng, thời chiến Quốc bên tàu); với mong muốn tạo điều kiện cho Pôn Pốt trỗi đầu dậy khi đại quân ta rút. 

Trung Quốc chưa bao giờ muốn chúng ta thống nhất; họ chỉ muốn Miền Bắc nước ta là nơi làm phên dậu cho họ như kiểu Triều Tiên, phụ thuộc vào họ chứ chẳng hề muốn một nước Việt Nam thống nhất, hùng mạnh. Họ đánh ta để làm suy yếu sức ta và nhầm tưởng rằng quân đội chủ lực ta đang ở Campuchia thì chúng ta dễ dàng bị thôn tính.

Thời kỳ này đất nước Trung Quốc đang cần đổi mới, họ bắt tay với Mỹ để phát triển kinh tế và họ chứng minh cho Mỹ thấy thiện chí của họ đối với Mỹ, họ đánh đất nước vừa khuất phục người Mỹ để thỏa lòng Mỹ.

2. TRUNG QUỐC TỪ KẺ ĐÒI ĐI DẠY HỌC VÀ CUỐI CÙNG TRỞ THÀNH HỌC TRÒ “TIỂU HỌC” TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆT NAM!



Trung quốc với lợi thế về người và số lượng vũ khí, khí tài hung hăng tiến sang như muốn ăn tươi nuốt sống chúng ta nhưng kinh nghiệm chiến đấu thì chỉ là con đom đóm nếu so với ánh trăng rằm Đại Việt Nam. Chúng ta vừa khuất phục người Pháp, Mỹ, kinh nghiệm chiến tranh nhân dân đã ăn vào máu người dân; Quân ta chủ yếu là bộ đội địa phương và dân quân du kích đã nướng chín hơn 62.500 quân tàu. Buộc chúng phải rút về nước khi cụ Tôn Đức Thắng vừa ra lệnh tổng động viên và đại quân ta đang tiến về nước từ Campuchia. Nếu chậm trễ trong việc rút quân thì có lẽ chặt hết cây trên núi Thái Sơn cũng không đủ làm quan tài chôn quân bành trướng vì họ không phải là đối thủ của Bộ đội chủ lực chúng ta, những người lính thiện chiến nhất thế giới thời kỳ đó.

Không quân Trung Quốc không dám xuất kích vì họ hiểu rõ J16, J17 không phải là đối thủ của Mic21, Sam2, Sam3. Họ hiểu rằng nếu mang không quân xâm lược Việt Nam thì quy mô chiến tranh sẽ lớn lên; họ không muốn sa lầy rồi chết thảm như Pháp, Hoa Kỳ. Họ khiếp sợ lưới lửa phòng không ở miền Bắc, nơi đã từng biến niềm tự hào của không lực Hoa Kỳ thành đồ nhôm.

3. VÌ SAO TRUNG QUỐC KHÔNG DÁM MANG QUÂN VÀO THỦ ĐÔ HÀ NỘI:

Trung Quốc không dám mang quân xuống Hà Nội vì nếu làm thế thì quy mô cuộc chiến sẽ đẩy lên rất to. Người Việt Nam sẽ tử chiến để bảo vệ Thủ đô. Trong lịch sử đã có những lần người Trung Quốc chịu thất bại tủi nhục khi mang binh từ Lạng Sơn xuống Thăng Long, tuyến đường này không còn có nhiều núi đồi, nhìn có vẻ thuận lợi nhưng lại là cái bẫy đối với kẻ xâm lược. Liễu Thăng thời nhà Minh bị triệt đường vận lương, bị phục kích và mất đầu khi giao chiến với quân đội của vua Lê Thái Tổ là ví dụ điển hình.

Nếu Trung Quốc liều lĩnh mang binh vào Hà Nội, chắc chắn Liên Xô có đủ thời gian để tập kích biên giới phía Bắc của họ. Lúc đó Xô - Việt là đồng minh chiến lược, có hiệp ước tương trợ lẫn nhau.

Họ sẽ phải đối diện với bộ đội chủ lực của ta, lúc này đã di chuyển từ Campuchia về. Bộ đội ta anh dũng, thiện chiến, kinh nghiệm trận mạc đầy mình. Pháp, Mỹ còn thua chạy dài thì Trung Quốc chẳng là gì. Chưa kể lực lượng dự bị động viên, dân quân du kích dồi dào của ta lúc đó. Nếu xuống Hà Nội thì đó sẽ là nghĩa trang vạn lý dành cho quân bành trướng.

Vũ khí, khí tài của Trung Quốc thời đó lạc hậu, kém xa ta. Với địa hình đồng bằng, hoả lực phát huy tối đa, Trung Quốc sẽ bị nướng chín. Hơn nữa, họ sẽ bị triệt đường vận lương, bị chia cắt và chết vì đói.

Từ kẻ đòi “dạy cho Việt Nam bài học”, Trung Quốc trở thành “người học trò” trước lực lượng chủ đạo là dân quân du kích gồm các cụ, các mẹ, các chị và bộ đội địa phương. Họ bị chặn đánh không kịp thở, quân đội thì ô hợp, thiếu kinh nghiệm chiến đấu; vũ khí tuy nhiều nhưng không hiện đại bằng chúng ta; là kẻ xâm lược, bành trướng nên quân tàu không có khí chí chiến đấu. Chiến tranh biên giới phía Bắc là nơi quân tàu bộc lộ nhiều điểm yếu chí tử và họ thất bại là sự tất yếu. 


Song hổ giao tranh, tất hữu nhất thương; chúng ta chiến thắng nhưng các tỉnh biên giới bị tàn phá nặng nề; chúng ta hy sinh nhiều của, nhiều người và phải mất nhiều năm mới khắc phục được hậu quả chiến tranh và đến 1991 ta mới bình thường hóa quan hệ với họ. Chiến tranh là điều không ai muốn vì khi nó xảy ra thì ngọc đá đều tan. Ôn lại lịch sử chứ không kích động hận thù. Ôn lại để càng thêm yêu quý giá trị của hòa bình, tri ân cha ông đã hiến máu xương để có ngày hôm nay. Tất nhiên, chủ quyền quốc gia là bất biến, là bất khả xâm phạm; nếu có bất cứ thế lực nào muốn xâm lược nước ta thì chắc chắn hào khí Việt Nam lại trỗi dậy và cái kết cho kẻ xâm lược sẽ đắng như cái cách mà người Pháp, Mỹ, Trung Quốc từng nhận./.

Fb LÃO CHĂN BÒ

 

Ngoài ra, để những “ông chủ” tung tiền cho Thắng thấy hài lòng về hoạt động chống phá chính quyền Việt Nam rất tích cực của BPSOS, đánh bóng “thương hiệu”, Nguyễn Đình Thắng tích cực chỉ đạo các đối tượng trong nước tung tin xuyên tạc, tấn công trực diện vào hình ảnh lãnh đạo Đảng, Nhà nước; rải bom tin đồn thất thiệt về nội bộ đấu đá, chia ghế, bầu cử không dân chủ, phe phái triệt hạ nhau; lồng ghép kêu gọi thả các tù nhân đấu tranh vì nhân quyền. Tuy nhiên, những trò này chỉ có thể bịp người thiếu thông tin. Phần đông người Mỹ gốc Việt đều biết Nguyễn Đình Thắng lợi dụng các hoạt động dưới danh nghĩa “hỗ trợ” cộng đồng để trục lợi cá nhân. Họ hiểu mục tiêu của y không phải vì lợi ích của cộng đồng mà cốt tạo tiếng tăm, từ đó dễ bề kiếm tiền.

Cái nghề “kinh doanh dân chủ, nhân quyền”, đầu cơ chính trị, tô vẽ hình ảnh cá nhân và các “tổ chức” do Nguyễn Đình Thắng cầm đầu đã giúp Nguyễn Đình Thắng bỏ túi số tiền vô kể. Chỉ với “dự án” phá hoại Đại hội Đảng XIII, Nguyễn Đình Thắng đã nhận tài trợ hơn 1,3 triệu USD để triển khai thực hiện các đề án chống phá vào trong nước, như: người thượng vì công lý, đề án vô Tổ quốc, đề án nhân quyền, đề án dân quyền qua đó huấn luyện đào tạo các đối tượng trong nước thu thập thông tin để viết báo cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo.

Cụ thể, BPSOS của Nguyễn Đình Thắng liên kết với tổ chức khủng bố Việt tân của Đỗ Hoàng Điềm hỗ trợ tài chính cho số đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam, đặc biệt là các linh mục như Đặng Hữu Nam, Nguyễn Đình Thục làm tay chân đắc lực, tuyên truyền lôi kéo tín đồ, giáo dân nhẹ dạ cả tin để thực hiện các hành vi phá hoại đất nước, núp bóng dưới cái mác vì nhân quyền, yêu nước.



Thậm chí, để tiện cho việc xách động giáo dân tại Vinh, Đặng Hữu Nam và Nguyễn Đình Thục âm mưu tung thư nặc danh tấn công, bôi nhọ Linh mục Nguyễn Hữu Long – Giám mục chính tòa giáo phận Vinh, gây sức ép để “bứng gốc” Linh mục Nguyễn Hữu Long thuyên chuyển đi nơi khác. Về vụ này, Đức Hồng y Luis Autonio G.Tagle (Tổng trưởng bộ lan báo tin mừng cho các dân tộc – tòa thánh Vatican) cử Linh mục Nguyễn Văn Thiên (Tổng Giám mục tòa thánh Hà Nội) đến giáo phận Vinh kiểm tra. Âm mưu, thủ đoạn của đường dây Nguyễn Đình Thắng – Đỗ Hoàng Điềm – Đặng Hữu Nam và Nguyễn Đình Thục nhanh chóng được bóc gỡ.

Năm 2012, khi Thắng mở cái gọi “thỉnh nguyện thư” gửi Chính phủ Mỹ yêu cầu gây áp lực buộc Việt Nam “cải thiện nhân quyền”, người Mỹ gốc Việt đã chửi như té nước: “Xem việc vận động giúp người tị nạn là một thương vụ kiếm tiền thì việc đó coi như là cứu giúp người tị nạn kiểu… khốn nạn nhất”, và “Lại thêm một vụ lừa bịp thỉnh nguyện thư trắng trợn nhắm vào người nhẹ dạ, không hiểu biết về luật pháp”. Thậm chí trên trang KBCHN (viết tắt của Khu Bưu Chính Hải Ngoại) – một tờ báo điện tử tiếng Việt ở Mỹ có người nói thẳng: “Rõ ràng không có việc làm nên mới có quá nhiều thì giờ lập ra hết ủy ban cứu nguy, hỗ trợ, giờ lại ủy ban đòi nợ!… kiếm không ra việc, phải sống bám vào mấy cái ủy ban cứu nguy này, đấu tranh nọ, phải sống bằng thỉnh nguyện, sáng chế ra thuốc nổ TNT”.

Thường thì, một kẻ lợi dụng vỏ bọc đấu tranh vì nhân quyền, tự do tôn giáo như Nguyễn Đình Thắng sẽ được số đối tượng cơ hội chính trị ở hải ngoại tung hô, ủng hộ. Thế nhưng, Nguyễn Đình Thắng lại bị chính số người Mỹ gốc Việt tại hải ngoại “bóc mẽ”, vạch trần là kẻ xảo trá chính trị, lợi dụng lòng tin của cộng đồng để ăn chặn tiền gửi, mà đỉnh điểm của việc này chính là vụ Holy Ngô, kẻ từng tham gia tổ chức BPSOS kiện Nguyễn Đình Thắng ra tòa án Mỹ về những bất minh tài chính.

Chỉ riêng điều này thôi, Nguyễn Đình Thắng đã không là cái gì trong mắt chính đồng bọn rồi!

 

Từ ngày 31/01 – 01/02/2023 vừa qua, tổ chức “Ủy ban cứu người vượt biển” (BPSOS) do Nguyễn Đình Thắng cầm đầu đã tổ chức cái gọi là “Hội nghị tự do tôn giáo quốc tế” tại Washington, Mỹ. Đây là một hoạt động thường lệ của tổ chức này và nói luôn, nó chẳng được ma nào chú ý ngoài các màn tự sướng của chúng. Bởi vì sao, bởi lẽ cái hội nghị này nhằm một mục đích duy nhất là cầm mic và xuyên tạc tình hình tôn giáo tại Việt Nam, vu cho Việt Nam những luận điệu như là đàn áp tự do tôn giáo vân vân, bất chấp thực tế là ra giêng chùa Việt Nam nào cũng tắc! Thế cho nên, bài này không để phản bác lại những luận điệu của “hội nghị” đó vì đã phản bác nhiều rồi, mà bài này xin vạch mặt kẻ cầm đầu BPSOS – tổ chức chống cộng cực đoan đã tổ chức cái hội nghị trên. Kẻ đó là Nguyễn Đình Thắng!

Nguyễn Ðình Thắng, nguyên quán tại Bùi Chu (Nam Ðịnh), vượt biên sang Mỹ năm 1978. Năm 1988, Thắng tham gia thành lập cái gọi là “Phong trào thanh niên cách mạng dân tộc Việt” – đây cũng là thời điểm vì những lý do khác nhau, một số người Việt Nam vượt biên nước ngoài. Ðánh hơi thấy có thời cơ kiếm chác, Nguyễn Ðình Thắng thành lập “Ủy ban cứu người vượt biển” (BPSOS) và đây chính là công cụ để Thắng thực hiện mục đích: kích động người Việt Nam rời bỏ đất nước để tạo cớ vu cáo Chính phủ Việt Nam về vấn đề nhân quyền, có lý do xin tài trợ từ Quỹ Quốc gia vì dân chủ (NED) và lợi dụng cơ hội vận động quyên góp tiền bạc cộng đồng người Việt ở nước ngoài, trực tiếp là người Mỹ gốc Việt. Tới năm 1998, tình trạng người Việt Nam vượt biên hầu như đã chấm dứt, điều kiện kiếm ăn không còn, Thắng liền tham gia “Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam” (CRFV), mục đích chính là mượn tay linh mục và tu sĩ để dễ quyên góp tiền. Tuy nhiên cái tổ chức này cũng nhanh chóng bị vạch mặt khi không có bóng dáng tu sĩ nào có mặt trong cái CRFV này.

Đối với những kẻ hoạt động chống phá đất nước Việt Nam đang sinh sống ở hải ngoại, chí ít phải nhận được sự ủng hộ của người cùng chí hướng. Tuy nhiên, Nguyễn Đình Thắng thì luôn bị các thành phần chống cộng, đặc biệt là người Mỹ gốc Việt bóc mẽ, vạch mặt là kẻ đầu cơ chính trị, ăn chặn tiền gửi về nước chu cấp cho một số đối tượng chống đối, kiếm sống bằng nghề lừa đảo. Từ năm 1999 đến năm 2005, Nguyễn Đình Thắng cùng một số đối tượng khác tổ chức nhiều đợt vận động cộng đồng người Việt ở nước ngoài “quyên tiền ủng hộ đồng bào lũ lụt trong nước”, mà thực chất là bịp bợm. Điều này được ông Hoài Thanh – bút danh Vân Nam, chủ báo Đại chúng phát hành trong cộng đồng người Việt ở Mỹ, đã vạch mặt Thắng từ năm 1998 đến năm 2001 nhân danh tổ chức hàng chục đợt quyên góp nhưng tiền gửi về nước để chu cấp cho một số đối tượng chống đối không quá một phần ba số tiền quyên góp, còn lại thì chia nhau tiêu xài.

Càng ngày, Nguyễn Đình Thắng càng ngửi ra rất nhanh mùi tiền, một con buôn chính trị đầy lưu manh, gian xảo, khó ai sánh bằng. Nguyễn Đình Thắng tận dụng triệt để mọi thời cơ, tìm kiếm cơ hội “kinh doanh dân chủ, nhân quyền”, để “đu trend”, đánh bóng tên tuổi bản thân, gây tiếng vang trong “giới dân chủ”, để hái ra tiền. Trắng trợn nhất là thời điểm Mỹ tiến hành chế tài và cấm nhập cảnh với một loạt quan chức Trung Quốc vì bất đồng quan điểm chính trị, Nguyễn Đình Thắng như “đỉa ngửi được mùi máu” đã đẻ ra các “dự án” kiến nghị kêu gọi Mỹ áp dụng đạo luật Global Magnitsky trừng phạt chế tài các quan chức Việt Nam. Cùng thời gian này, Nguyễn Đình Thắng chỉ đạo “tay, chân” gieo rắc, rải đầy trên không gian mạng các thông tin xuyên tạc lãnh đạo Việt Nam “vi phạm nhân quyền” để có “cái cớ” làm thư thỉnh nguyện. Từ 2017 đến 2020, Nguyễn Đình Thắng và đồng bọn thực hiện cả chục hồ sơ kiến nghị, nhưng thành tích đạt được chỉ như “đấm vào không khí”./.

 Để giữ vững an ninh chính trị tại các khu vực biên giới, 13 cán bội Biên phòng tỉnh Kon Tum được tăng cường về công tại các xã biên giới; trong đó có 3 đồng chí giữ chức danh Phó Bí thư Đảng ủy xã. Các cán bộ Biên phòng đã nhận được sự tin tưởng tuyệt đối của chính quyền địa phương và niềm tin yêu của nhân dân.



Cán bộ Biên phòng tại Kon Tum tuyên truyền cho người dân ở các xã vùng biên về xóa bỏ hủ tục, thay đổi nếp nghĩ cách làm vươn lên thoát nghèo. 

Xã biên giới Sa Loong (huyện Ngọc Hồi) là địa phương đặc biệt khó khăn với hơn 85% là người dân tộc thiểu số. Đa phần người dân còn giữ phương thức canh tác lạc hậu, một số hộ gia đình lưu lại các hủ tục, mê tín dị đoan. Đặc biệt, năm 2003 lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân, các đối tượng xấu đã dụ dỗ, lôi kéo người đi theo tà đạo Hà Mòn.

Thiếu tá Phạm Huy Thắng (Đồn Biên phòng xã Sa Loong) cho biết, năm 2003, làng Giang Lố 2 bắt đầu xuất hiện tà đạo Hà Mòn. Để nắm bắt tình hình, đơn vị đã cử các chiến sỹ ngày đêm ăn, ở cùng dân, bám sát địa bàn, phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương trong công tác tuyên truyền, vận động người dân từ bỏ tà đạo Hà Mòn.

Tuy nhiên, khó khăn nhất đối với lực lượng chức năng là khi tuyên truyền, người dân lại lẩn tránh vì nhận thức còn hạn chế. Với sự kiên trì, đấu tranh không ngừng nghỉ của các chiến sỹ Biên phòng, cùng với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, người dân dần không tin vào tà đạo. Đến năm 2016, 100% người dân tại làng Giang Lố 2 đã bỏ hẳn tà đạo. Đây được coi là chiến thắng trên mặt trận tư tưởng của người lính Biên phòng, góp phần mang lại bình yên trên tuyến biên giới Kon Tum.

Hiện Thiếu tá Phạm Huy Thắng được phân công về công tác tại xã Sa Loong với chức danh Phó Bí thư Đảng ủy xã để tiếp tục cùng chính quyền địa phương giữ vững tình hình an ninh trật tự trên tuyến biên giới. Cùng với đó, Thiếu tá Phạm Huy Thắng tích cực tham gia công tác dân vận, vận động người dân thay đổi phương thức canh tác lạc hậu, chuyển sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao để nâng cao thu nhập, vươn lên thoát nghèo bền vững.


Lực lượng Biên phòng tại Kon Tum hỗ trợ bò giống cho người dân có hoàn cảnh khó khăn nhằm thắt chặt tình quân dân nơi tuyến biên giới. 

Gia đình anh A Đam (làng Giang Lố 2, xã Sa Loong) trước đây rất nghèo. Từ khi được cán bộ Biên phòng hướng dẫn, tuyên truyền, gia đình anh Đam đã chuyển đổi diện tích trồng mì ít hiệu quả sang trồng cà phê, cao su kết hợp với nuôi gà, lợn. Anh A Đam vui mừng chia sẻ, các loại cây trồng hiện tại cho năng suất và giá thành cao hơn so với cây mỳ.

Tham gia cùng chính quyền địa phương trong công tác bảo vệ và phát triển rừng, hàng tháng gia đình anh có thu nhập trên 6 triệu đồng. Nhờ đó, cuộc sống của anh giờ khá hơn trước, các con được đi học đầy đủ. Nhờ chính quyền địa phương, nhất là việc cử cán bộ Biên phòng xuống địa bàn, bà con đã bỏ hết những hủ tục, chăm chỉ làm ăn. Đời sống của bà con phát triển, nhiều hộ xây được nhà mới khang trang. Anh và gia đình sẽ vận động những người khác học tập, làm theo lực lượng Biên phòng nhằm xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh.

Tại những nơi công tác, những cán bộ Biên phòng Kon Tum luôn được người dân yêu thương, quý trọng và được ví như “cầu nối” quan trọng trong việc tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đông đảo người dân.

Chủ tịch UBND xã Sa Loong Nguyễn Hữu Bảng cho biết, ngoài nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ tuyến biên giới quốc gia, cán bộ, chiến sỹ Biên phòng luôn phối hợp chặt chẽ với chính quyền trong việc vận động người dân phát triển kinh tế - xã hội. Các chương trình dân vận khéo, giúp bà con thay đổi nếp nghĩ cách làm đã được cán bộ Biên phòng triển khai có hiệu quả.


Bên cạnh nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ vững chắc đường biên, cột mốc, các chiến sỹ Biên phòng tại Kon Tum thường xuyên hỗ trợ người dân phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập. 

Bên cạnh đó, các chiến sỹ còn giúp dân thu hoạch hoa màu sau bão; xây dựng chuồng trại chăn nuôi và chăm sóc cây công nghiệp; làm đường giao thông liên thôn, nạo vét kênh mương; phối với nhà trường và chính quyền địa phương vận động học sinh bỏ học quay lại trường; hỗ trợ học bổng cho học sinh nghèo vượt khó; thăm, tặng quà các gia đình chính sách. Cùng với việc tăng cường một cán bộ Biên phòng về làm việc tại xã với chức danh là Phó Bí thư Đảng ủy giúp công tác phối hợp, triển khai giữa hai bên ngày càng chặt chẽ. Hiệu quả cho thấy xã Sa Loong đã đạt 17/19 tiêu chí nông thôn mới.

Với hơn 290 km đường biên, những chiến sỹ Biên phòng tại 13 xã biên giới ở tỉnh Kon Tum luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; kết hợp với chính quyền các xã xây dựng nền biên phòng toàn dân vững chắc, góp công lớn vào công cuộc xây dựng tỉnh Kon Tum ngày càng giàu mạnh, văn minh./.

Bài và ảnh: Khoa Chương - Nguồn: TTXVN

 Cơ quan An ninh điều tra đang tạm giữ ông Đỗ Hữu Ca, nguyên Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng để xác minh, làm rõ một số vấn đề liên quan đến vụ án hình sự.



Thiếu tướng Đỗ Hữu Ca, nguyên Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng.

Tạm giữ ông Đỗ Hữu Ca để làm rõ một số vấn đề liên quan đến vụ án trốn thuế, mua bán trái phép hóa đơn

Cổng TTĐT Bộ Công an cho biết, mở rộng điều tra vụ án hình sự "Trốn thuế, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước", xảy ra tại Quảng Ninh và Hải Phòng, ngày 18/2/2023, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp một số đơn vị nghiệp vụ của Bộ Công an và Công an một số tỉnh, thành phố tiến hành tố tụng đối với các đối  tượng có liên quan.

Cơ quan An ninh điều tra đang tạm giữ ông Đỗ Hữu Ca, Nguyên Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng để xác minh, làm rõ một số vấn đề liên quan đến vụ án nêu trên.

Hiện các cơ quan chức năng đang khẩn trương tiến hành công tác điều tra tố tụng theo trình tự quy định của pháp luật.


Lực lượng Công an có mặt tại trước nhà riêng của ông Đỗ Hữu Ca. Ảnh CAND

Khám xét nhà riêng của ông Đỗ Hữu Ca tại Hải Phòng

Thông tin về vụ việc, Cổng TTĐT tỉnh Quảng Ninh nêu rõ: Ngày 18/2, lực lượng Công an tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện lệnh tạm giữ đối với Thiếu tướng Đỗ Hữu Ca (sinh năm 1958), nguyên Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng, để xác minh, làm rõ một số vấn đề có liên quan đến vụ án “Trốn thuế, Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước” xảy ra tại Quảng Ninh và Hải Phòng.

Cùng với lệnh bắt giữ, Công an tỉnh Quảng Ninh đã phối hợp với một số đơn vị của Bộ Công an, Công an thành phố Hải Phòng tổ chức khám xét nhà riêng của ông Đỗ Hữu Ca tại phường Đằng Lâm, quận Hải An và căn nhà tại xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.


Lực lượng chức năng khám xét nơi ở của ông Đỗ Hữu Ca. Ảnh CAND

Thu giữ nhiều tài liệu tại nơi ở của ông Đỗ Hữu Ca

Trong một diễn biến liên quan, báo CAND cho biết, chiều ngày 18/2, Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp cùng với Bộ Công an và Công an Hải Phòng thực hiện Lệnh bắt khẩn cấp đối với ông Đỗ Hữu Ca.

Sau đó, cơ quan Công an đã tiến hành khám xét nơi ở của ông Đỗ Hữu Ca tại xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên và căn biệt thự tại Lô 18, đường Lê Hồng Phong, phường Đằng Lâm, quận Hải An (cùng TP Hải Phòng).

Việc khám xét tại nơi ở Lô 1, đường Lê Hồng Phong được tiến hành kéo dài đến khoảng 1 giờ sáng ngày 19/2 và lực lượng chức năng đã thu giữ nhiều tài liệu liên quan để phục vụ công tác điều tra.

Ông Đỗ Hữu Ca sinh ngày 23/11/1958, quê ở xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên, TP Hải Phòng; trình độ chuyên môn: Đại học An ninh, Đại học Ngoại thương, Đại học Báo chí, Đại học Luật. Từ năm 2010, ông Đỗ Hữu Ca giữ chức vụ Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng đến năm 2019 thì nghỉ hưu theo chế độ./.

Nguồn: Báo điện tử Chính phủ

 Thời gian gần đây, trên mạng internet, một số tổ chức, cá nhân thù địch móc nối với những phần tử cơ hội chính trị, những đối tượng bất mãn cố tình cắt ghép, ngụy tạo những bức ảnh, video clip xuyên tạc, chế nhạo việc tham gia nghĩa vụ quân sự, Công an.


Có bài viết chỉ trích, hiện nay, trong khi các nước quan tâm chăm lo đào tạo cho thanh niên lập nghiệp, làm ăn kinh tế thì “chỉ có Việt Nam mới bắt ép người dân đi nghĩa vụ quân sự, Công an”. Một số trang web còn đăng tải các cảnh bạo lực trong quân đội nước ngoài, cảnh quân đội tham chiến ở một số khu vực trên thế giới rồi cài lời bình xuyên tạc là “chuyện ở trong quân ngũ Việt Nam”.


Nguy hiểm hơn, có những hình ảnh, video được cắt ghép, dàn dựng để bóp méo sự thật, xuyên tạc về đạo đức, tác phong và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội, Công an nhằm kích động một số người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết chia sẻ, lan tỏa trên mạng xã hội, làm nóng vấn đề. Tung tin thất thiệt về cảnh bạo lực hay “cái chết oan ức” rồi đưa ra những câu hỏi khả nghi, cho rằng “có sự lấp liếm, giấu nhẹm”!

Mục đích của họ là nhằm bôi nhọ hình ảnh, bản chất, truyền thống, uy tín của lực lượng Công an, Quân đội, gây ngờ vực trong nhân dân. Từ đó, tạo luồng tư tưởng khiến cho thanh niên nhập ngũ “tự diễn biến”, buông lỏng về trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân với Tổ quốc, làm người dân hoang mang, không muốn cho con em mình thực hiện nghĩa vụ quân sự, Công an. Đó còn là mưu đồ hòng gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội khi các đối tượng phản động kích động người dân biểu tình, chống phá, kích động các quân nhân đào ngũ, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc…

Thực tiễn lịch sử cho thấy, dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc, đó chính là truyền thống quý báu của tổ tiên ta. Ðảng ta đã vận dụng, phát triển thành hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, các triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam đã có chính sách “ngụ binh ư nông”.

Chính sách này ra đời trong bối cảnh một đất nước đất không rộng, người không đông, lại thường bị các thế lực nước ngoài xâm lược. Chính sách “ngụ binh ư nông” là sự kết hợp nhiệm vụ duy trì lực lượng quốc phòng với sản xuất, sẵn sàng chuyển hóa lực lượng quân sự từ sản xuất sang chiến đấu khi cần thiết và ngược lại, chuyển lực lượng chiến đấu về sản xuất trong thời bình. 

Bảo vệ Tổ quốc không chỉ hiểu theo nghĩa hẹp là bảo vệ bên ngoài biên giới, lãnh thổ, mà cần hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả bên trong. Không chỉ chiến đấu bảo vệ khi có kẻ thù xâm lược mà phải tổ chức phòng thủ, phòng ngừa từ trước, từ sớm, từ xa; chủ động chuẩn bị về mọi mặt, bao gồm cả chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... ngay từ thời bình.

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân” (Điều 45, Chương II) và “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là sự nghiệp của toàn dân… Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh” (Điều 64, Chương IV). Thể chế hóa Hiến pháp, Luật Nghĩa vụ quân sự và Luật CAND quy định rõ việc công dân tham gia nghĩa vụ quân sự, Công an.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó QĐND và CAND là nòng cốt". Chính sách và chiến lược quốc phòng của Đảng ta là tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.

Thực hiện nghĩa vụ quân sự, Công an không chỉ đơn thuần là chấp hành pháp luật của Nhà nước, đó còn là nghĩa vụ thiêng liêng cao cả của công dân đối với dân tộc, với Tổ quốc. Lịch sử minh chứng, dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành quy luật trường tồn của dân tộc ta. Biết bao thế hệ ông cha đã ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, ý chí “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xung phong lên đường chiến đấu, trở thành những chiến sĩ kiên trung, bất khuất. Ngày nay, trong thời bình, ổn định và hợp tác quốc tế, hình ảnh chiến sĩ Quân đội, Công an lại càng sống động hơn khi sát cánh cùng nhân dân vượt qua thiên tai, dịch bệnh để bảo vệ tính mạng, tài sản của người dân. Các chiến sĩ bộ đội, Công an đồng hành cùng người dân ở những khu vực biên giới, núi cao, vùng sâu vùng xa trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xóa đói nghèo, lạc hậu, chung tay xây dựng nông thôn mới...

Các nước trên thế giới cũng đều có những quy định về nghĩa vụ quân sự, tuỳ từng điều kiện cụ thể mỗi nước. Tại Thụy Sĩ, luật pháp nước này quy định tất cả đàn ông từ 19 đến 26 tuổi đều phải đăng ký nhập ngũ và phục vụ trong quân đội ít nhất 260 ngày, trong đó có 18 tuần huấn luyện và 7 lần gọi tái nhập ngũ, mỗi lần kéo dài 3 tuần trong suốt 10 năm tiếp theo. Tuy nhiên, họ có thể chọn phục vụ cộng đồng 390 ngày thay vì thi hành nghĩa vụ quân sự.

Đối với Hàn Quốc, là một trong những nước có luật nghĩa vụ quân sự nghiêm ngặt nhất trên thế giới. Gần như tất cả các nam công dân tuổi từ 18-35 của nước này đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự trong khoảng thời gian 21 tháng. Không một ai được miễn trừ dù là người có địa vị cao hay nhân vật của công chúng như diễn viên, ca sĩ nổi tiếng. Hiến pháp Hàn Quốc quy định rõ, việc tôn trọng lệnh nhập ngũ và thực hiện nghĩa vụ quân sự là trách nhiệm và nghĩa vụ bắt buộc đối với toàn bộ các công dân nam có đủ sức khỏe. Những trường hợp được miễn giảm chủ yếu có vấn đề về sức khỏe, tàn tật, tâm thần, mắc bệnh truyền nhiễm và không có khả năng lao động. Những ai đủ tiêu chuẩn mà từ chối thi hành nghĩa vụ quân sự thì sẽ bị phạt tù.

Tại quốc gia Đông Nam Á Singapore, nghĩa vụ quân sự được biết đến với tên nghĩa vụ quốc gia (NS), là nghĩa vụ bắt buộc mà mọi công dân nam phải thực hiện khi đủ 18 tuổi. Công dân đi nghĩa vụ quân sự có thể phục vụ trong lực lượng Vũ trang Singapore (SAF), lực lượng Phòng vệ dân sự Singapore (SCDF) hoặc lực lượng Cảnh sát Singapore (SPF). Theo quy định của đảo quốc, tất cả những người vi phạm nghĩa vụ quốc gia đều phải đối mặt án phạt tiền tới 10.000 đô la Singapore, án tù với thời hạn không quá ba năm hoặc cả hai. Ở Thái Lan, nghĩa vụ quân sự bắt đầu được thực hiện vào năm 1905. Theo Hiến pháp Thái Lan, việc phục vụ trong lực lượng vũ trang được coi là nghĩa vụ quốc gia của công dân Thái Lan. Trên thực tế, chỉ những nam giới trên 21 tuổi chưa trải qua khóa huấn luyện dự bị mới phải nhập ngũ.

Theo quy định của pháp luật Trung Quốc thì nghĩa vụ quân sự được coi là nghĩa vụ bắt buộc. Tuy nhiên trên thực tế, do dân số đông, nguồn nhân lực cho quân đội dồi dào nên gần như quy định này được thực hiện theo cách tự nguyện. Công dân Trung Quốc không phân biệt nam hay nữ đều phải tham gia khoá huấn luyện quân sự kéo dài 20 ngày, là một phần của hệ thống giáo dục. “Đó là nhiệm vụ thiêng liêng của mọi công dân Trung Quốc để bảo vệ quê hương, chống lại kẻ thù xâm lược. Đó còn là sự tự hào được phục vụ, đứng trong hàng ngũ quân đội” - Điều 55, Hiến pháp Trung Quốc quy định.

Như vậy, tùy theo tình hình chính trị, quân sự của mỗi nước, chế độ nghĩa vụ quân sự được thực hiện một cách phù hợp chứ không phải như luận điệu của các thế lực xấu cho rằng, chỉ Việt Nam đưa ra quy định nghĩa vụ quân sự, Công an nhằm “o ép người dân”. Hiện nay, bên cạnh các nước thực hiện quy định nghĩa vụ quân sự bắt buộc thì một số nước châu Âu cùng với Hoa Kỳ đã không còn duy trì hình thức nghĩa vụ quân sự mà hướng tới xây dựng quân đội gồm hoàn toàn các quân nhân chuyên nghiệp, tự nguyện phục vụ trong quân đội.

Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng, cao quý nhất của mỗi công dân. Lên đường làm nghĩa vụ quân sự không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm, mà trên hết đó còn là niềm tự hào của tuổi trẻ và trách nhiệm của thanh niên Việt Nam để góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Được sống trong hòa bình, độc lập, tự do mà ai đó nếu chỉ biết đến vun vén, hưởng thụ cho bản thân, nghe theo luận điệu xấu rồi thoái thác, trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm công dân tham gia bảo vệ Tổ quốc thì không những vi phạm pháp luật mà còn có tội với các thế hệ ông cha, với truyền thống lịch sử dân tộc./.

Bình Nguyên - Bảo Ninh, Nguồn: CAND

 Ý đồ của những đối tượng cổ xúy “xã hội dân sự” cũng không ngoài mục đích làm suy yếu, vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), từ đó loại bỏ vị trí, vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và hướng lái đất nước Việt Nam đi theo con đường khác, xa lạ, đối nghịch với con đường cách mạng XHCN.


Âm mưu tinh vi, xảo quyệt

Khái niệm “xã hội dân sự” (civil society) được hiểu là không gian xã hội công cộng nằm ngoài khu vực nhà nước, thị trường và lĩnh vực riêng tư của cá nhân, bao gồm tổng thể các thiết chế và thể chế xã hội độc lập tương đối với nhà nước và hoạt động tự nguyện trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, truyền thông đại chúng, tôn giáo, xã hội...

Tuy nhiên, bản thân “xã hội dân sự” cũng tiềm ẩn những rủi ro, nếu không nhận diện đúng, không quản lý đầy đủ sẽ dễ bị lợi dụng, trở thành công cụ chính trị để cho những phần tử cơ hội, phản động gây ra những bất ổn chính trị. Những kẻ cố tình cổ xúy “xã hội dân sự” thực chất là lợi dụng các hội, nhóm, diễn đàn... để phát triển “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây áp dụng vào Việt Nam, từng bước chuẩn bị lực lượng để tiến hành các cuộc “cách mạng màu”, chính trị hóa các tổ chức này trở thành lực lượng đối lập, cạnh tranh trực tiếp với vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua đó thực hiện mục tiêu lật đổ chế độ XHCN bằng biện pháp “bất bạo động”, “phi vũ trang”.

Ý đồ của những đối tượng cổ xúy “xã hội dân sự” nhằm làm suy yếu, vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, từ đó loại bỏ vị trí, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam và hướng lái đất nước Việt Nam đi theo con đường khác, xa lạ, đối nghịch với con đường cách mạng XHCN.

Để đạt được mục tiêu này, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị ra sức tuyên truyền những luận điệu sai trái, thù địch nhằm phủ định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt phủ định đường lối đổi mới toàn diện đất nước, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam; đòi đa nguyên, đa đảng; đòi tư nhân hóa hoạt động báo chí, xuất bản... Bên cạnh đó, chúng tích cực tuyên truyền, cường điệu hóa vai trò của các tổ chức “xã hội dân sự” là hiện thân của tự do, dân chủ; xuất bản, lưu hành bất hợp pháp các bài viết, tài liệu công khai cổ vũ, đề cao mô hình “xã hội dân sự” kiểu phương Tây; hô hào và tìm cách tác động áp dụng mô hình này vào xã hội Việt Nam để mở rộng diễn đàn dân chủ, phát huy đa nguyên... từng bước hình thành các “phong trào”, “mặt trận” dân chủ, trở thành lực lượng đối trọng, đối lập với Đảng và Nhà nước ta trong tương lai.

Các thế lực thù địch bên ngoài gia tăng các hoạt động móc nối, liên kết, hậu thuẫn cho những người bất đồng chính kiến trong nước, những người bất mãn trong một bộ phận văn nghệ sĩ, trí thức, luật sư... hoạt động theo khuynh hướng độc lập, hình thành các tổ chức “xã hội dân sự” đối lập theo mô hình của phương Tây. Thời gian qua, các tổ chức phản động lưu vong như: “Chính phủ Việt Nam tự do”; “Việt Nam canh tân cách mạng Đảng”; “Đảng nhân dân hành động”; “Đảng dân chủ nhân dân”; “Đảng vì dân”; “Tập hợp dân chủ đa nguyên”; “Hội đồng dân quân cứu quốc”... liên tục chỉ đạo, tài trợ, cung cấp phương tiện cho một số đối tượng chống đối trong nước tiến hành hoạt động chống phá như: Khiếu kiện đông người, vượt cấp, đình công, biểu tình, qua đó tạo thành các điểm nóng về an ninh trật tự rồi tìm cách gây bạo loạn, lật đổ chính quyền.


Ảnh minh hoạ: TTXVN 

Ngoài ra, chúng lợi dụng triệt để internet và mạng xã hội để tuyên truyền, liên tục tổ chức các cuộc “phỏng vấn”, “hội thảo”, “hội luận” nhằm vào các đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị, các phần tử cực đoan, quá khích trong tôn giáo bàn về chủ đề “tổng nổi dậy”, “biểu tình” và “quyền thành lập tổ chức chính trị đối lập”; tập trung tuyên truyền đòi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp, “phi chính hóa” lực lượng vũ trang; kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, tạo tâm lý hoài nghi trong quần chúng nhân dân về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

Đề cao cảnh giác các luận điệu cổ xúy “xã hội dân sự”

Thực tiễn tại Liên Xô từ những năm 80 của thế kỷ 20 đã hình thành các công đoàn, tổ chức hội có xu hướng tách khỏi quản lý của nhà nước, đối lập với chính quyền, hoạt động với danh nghĩa là “tổ chức xã hội dân sự” nhân danh bảo vệ công nhân, bảo vệ các quyền dân sự. Đến cuối thập niên 1980, nhiều tổ chức “xã hội dân sự” nhận tài trợ nước ngoài, vận động ngầm hoặc công khai truyền bá tư tưởng phủ nhận Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô; nhiều cơ quan xuất bản, phát thanh, truyền hình được phương Tây tài trợ đã quay sang chỉ trích lịch sử cách mạng, khiến tư tưởng chính trị của đảng viên và nhân dân Liên Xô trở nên dao động dữ dội, lòng tin vào sự nghiệp cách mạng sụt giảm nghiêm trọng. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của Liên Xô.

Ở Việt Nam, các thế lực phản động, cơ hội chính trị đã tiếp tay, nuôi dưỡng các tổ chức phi chính phủ bằng những khoản viện trợ, tài trợ để giương cao khẩu hiệu “dân chủ, tự do, nhân quyền”, lợi dụng mâu thuẫn xã hội, kích động, xúi giục, lừa dối và lôi kéo đông đảo người dân tham gia các hoạt động biểu tình, khiếu kiện đông người, tạo ra những điểm nóng chính trị-xã hội. Thực tế thời gian qua, chúng đã thành lập các tổ chức “xã hội dân sự” với tên gọi, khẩu hiệu dễ gây ấn tượng với thị hiếu của từng nhóm xã hội nhất định, như: “Diễn đàn xã hội dân sự”; “hội tù nhân lương tâm”; “hội phụ nữ nhân quyền”; “hội bầu bí tương thân”; “hội nhà báo độc lập”; “hội anh em dân chủ”...

Trước hành động cổ xúy “xã hội dân sự” hiện nay của một số thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, chúng ta cần chủ động nhận diện, đấu tranh, phản bác và làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của chúng.

Trước hết, các cấp ủy đảng và chính quyền, đội ngũ cán bộ, đảng viên cần nhận thức đầy đủ về “xã hội dân sự” và có cách ứng xử phù hợp với các thế lực có yêu sách đòi hình thành và phát triển “xã hội dân sự” theo kiểu xã hội phương Tây; thẳng thắn bác bỏ và phê phán, đấu tranh kiên quyết với những quan điểm khuyến khích, cổ vũ “xã hội dân sự” một cách mù quáng, bất chấp những hệ lụy, với ý đồ thúc đẩy hình thành các tổ chức chính trị-xã hội đối lập ở nước ta.

Các cơ quan chức năng, các cơ quan nghiên cứu kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp hạn chế đến mức thấp nhất những hệ lụy, ảnh hưởng tiêu cực của “xã hội dân sự” mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam. Đảng, Nhà nước tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm phát huy đầy đủ vai trò của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội; thúc đẩy phát triển các tổ chức này phù hợp với luật pháp, điều kiện thực tế của đất nước, phù hợp với cơ chế vận hành của thể chế chính trị, giữ vững bản chất chế độ XHCN.

Cùng với đó, các cơ quan, mặt trận, đoàn thể, các ngành, các cấp tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân luôn cảnh giác, ngăn chặn kịp thời không để du nhập, áp đặt hình thành mô hình “xã hội dân sự” theo kiểu xã hội phương Tây không phù hợp với điều kiện đất nước; không để các thế lực nước ngoài chi phối các tổ chức xã hội ở nước ta. Bảo đảm sự hình thành, hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội thực sự xuất phát từ nhu cầu thiết thực, hợp pháp của nhân dân và được định hướng, tổ chức, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

“Xã hội dân sự” hiện nay là vấn đề chính trị-xã hội phức tạp, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nhận thức đúng đắn, hành động cẩn trọng, bảo đảm cơ sở chính trị, pháp lý rõ ràng, không để các tổ chức “xã hội dân sự” phát triển một cách tự phát; nâng cao cảnh giác và chủ động phòng ngừa, làm thất bại mọi âm mưu của thế lực thù địch cổ xúy “xã hội dân sự” là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên để bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước./.

TS ĐẶNG VIẾT ĐẠT, Học viện Chính trị khu vực IV, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Nguồn: QĐND

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.