Những ngày này, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang phấn khởi chào mừng kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh (2-9).


Ngày mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Đảng, Chính phủ Lâm thời và quốc dân đồng bào đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, đánh dấu một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ cộng hòa”. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cũng đã và đang ra sức lập thành tích chào mừng đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng-đại hội có ý nghĩa bản lề, đánh dấu 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới; đồng thời tiếp tục mở ra thời kỳ phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945. (Ảnh tư liệu TTXVN).

Ấy vậy, chính những ngày tháng Tám này, vẫn có người cố tình ngược dòng lịch sử, núp bóng dưới những tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh để nhằm xuyên tạc chính tư tưởng, cuộc đời và sự nghiệp của Người, nhằm chống phá Đại hội XIII của Đảng. Họ đã dở chiêu trò lừa gạt hết sức thâm hiểm là đưa ra câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”, cùng những "bình loạn" lăng nhăng, hòng lòe bịp người chưa hiểu biết nhiều về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chiến đấu, hy sinh, cống hiến trọn cuộc đời mình để dân tộc Việt Nam có được như ngày hôm nay.

Trong bản gọi là “Góp ý cho Dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng”, với 24 trang in màu, tác giả đã xưng danh và tự nhận đã có một thời tham gia các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; từng là thành viên của một đại đội anh hùng... Mục đích cũng là để “khéo” gây lòng tin, thiện cảm về mình; từ đó dẫn dắt người đọc đến với sự xuyên tạc trắng trợn, bóp méo tư tưởng, cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm “thần thánh hóa”, “tôn giáo hóa” Hồ Chí Minh. Cuối cùng, họ mong muốn không ai dám đụng vào những triết lý gọi là “Thần đạo Việt Nam” do chính họ tưởng tượng ra và mô tả trong bản "góp ý". Cũng từ đó họ suy ra và xuyên tạc Chủ nghĩa Mác, phủ nhận thành tựu của CNXH ở Liên Xô và chủ nghĩa duy vật biện chứng; phản ánh sai lạc, tiến tới phủ nhận thành quả và con đường đi lên CNXH mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn. Cuối cùng họ cũng lộ ra cái “kiến nghị” quay lại “chính thể Việt Nam Dân chủ cộng hòa”; “Phục hưng đất nước và phục hưng giá trị con người trước hết là phục hưng Thần đạo Việt Nam”...

Sự sai lầm dẫn đến phản động về chính trị của cái gọi là bản “góp ý” này được thể hiện trên những vấn đề sau:

Với chủ nghĩa cộng sản. Họ đã quy kết chủ nghĩa cộng sản chỉ là “đấu tranh/ phân biệt”; và dám cả gan bịa ra rằng: “Đấu tranh giai cấp là một điều ngu ngốc”? Có thể thấy, trước hết ở đây là thể hiện sự kém hiểu biết về bản chất của chủ nghĩa cộng sản; sau là xuyên tạc tư tưởng và hành động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghiên cứu Hồ Chí Minh toàn tập (bộ 15 tập), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2011, không có một dòng nào, chữ nào Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và nói như họ dẫn dắt.

Học thuyết Mác-Lênin đã chỉ ra, đấu tranh giai cấp là một hiện tượng lịch sử, tất yếu trong xã hội có bóc lột, áp bức giai cấp và nhà nước. Giai cấp và nhà nước chỉ thực sự mất đi khi giai cấp công nhân-giai cấp cuối cùng trong lịch sử nhân loại hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo nhân dân lao động hoàn thành trận chiến đấu cuối cùng là lật đổ giai cấp tư sản áp bức, bóc lột và thủ tiêu nhà nước của chúng; xây dựng một nhà nước, chế độ xã hội không còn áp bức, bóc lột nữa; đồng thời cũng thủ tiêu chính sự hiện diện của mình và nhà nước của mình với tính cách là một giai cấp và công cụ của giai cấp ấy, để xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản. Cuộc đấu tranh giai cấp ấy được tiến hành bằng nhiều biện pháp: Đấu tranh vũ trang, đấu tranh hòa bình, hoặc kết hợp cả hai. Không thể lấy, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai hình thức đó, nhất là như ở Liên Xô và Việt Nam để quy kết chủ nghĩa cộng sản chỉ là “đấu tranh/ phân biệt”, rồi phủ nhận toàn bộ học thuyết khoa học, cách mạng này.

Với tư tưởng và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ đã trích dẫn, phản ánh sai lệch hầu như toàn bộ tư tưởng và hành động cách mạng của Người. Trong 24 trang đó, họ đã “trích dẫn” rất nhiều “câu nói”, “bài viết” của Hồ Chí Minh, nhưng chỉ có một câu chép đúng là: “Trăm điều phải có Thần linh Pháp quyền”, còn lại đều cố tình trích dẫn sai lệch, hoặc bóp méo, nhằm đạt được dụng ý xấu trong cái gọi là “góp ý” của mình là “tôn giáo hóa” tư tưởng Hồ Chí Minh. Thời điểm ra đời câu nói này, họ đã phản ánh sai là “ngày 19-5-1941”; mà chính xác, Hồ Chí Minh khi đó lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, viết trong bài thơ Việt Nam yêu cầu ca, vào khoảng tháng 6 đến tháng 11-1921. Bài thơ do Người viết tay, nay còn được lưu tại Viện Hồ Chí Minh và Các lãnh tụ của Đảng.  

Cũng trong bản "góp ý" này, họ đã núp bóng tư tưởng Hồ Chí Minh để tuyên truyền cho những triết lý “Thần đạo và Lãnh đạo” của mình. Nhưng ngay cả câu nói nổi tiếng nhất đã đi vào lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng ta và lịch sử thế giới là: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh nói ngày 17-7-1966 cũng bị họ cố tình bịa đặt thời điểm là ngày 19-5-1941. Đồng thời, họ trích dẫn và phản ánh sai lệch tư tưởng của C.Mác, khi cho rằng: “còn Mác lại có tư tưởng Vô thần nhất, khi ông coi tôn giáo, tín ngưỡng của nhân loại chỉ là “Thuốc phiện của nhân dân”? Mà đáng lẽ ra họ phải phản ánh đầy đủ, nguyên tác lời văn và giải thích đúng đắn tư tưởng của Mác là: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”; và một khi con người còn bị nghèo đói do những bất công của xã hội đem lại, họ không còn nơi nào để giúp đỡ nữa; khi không còn lối thoát nào khác thì họ nương nhờ vào chính những đức tin tôn giáo do họ sáng tạo ra, để quên đi, ru ngủ cuộc sống đau buồn của họ như dùng những liều thuốc phiện.

Về cái gọi là “Thần đạo Việt Nam”. Trong cái gọi là bản “góp ý” này, họ lúc nào cũng nêu lên “Thần đạo Việt Nam” và gắn kết nó trong một câu phức hợp với nhiều ý tứ, ngôn từ của Hồ Chí Minh, những mục tiêu, lý tưởng, giá trị tốt đẹp của dân tộc, chủ nghĩa cộng sản và nhân loại, cả ở quá khứ, hiện tại và “đường hướng” do họ vạch ra cho đất nước ở tương lai. Nhưng nội hàm “Thần đạo” đó là cái gì thì không rõ. Người đọc phải lần tìm từng chữ, nghĩa và những hình ảnh về di sản vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam mà họ “trưng diện” mới cố mà hiểu được, như tượng Quốc Mẫu Âu Cơ, Phù điêu Quốc Tổ Lạc Long Quân, Đền Hùng, Hoàng Thành Thăng Long, Chiếu dời đô của Vua Lý Thái Tổ... Phải chăng sự tập hợp những di sản vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam trên đây được đúc kết trở thành cái gọi là “Thần đạo Việt Nam” của họ?

Trong đời sống hiện thực của nhân dân, những giá trị đó không có gì khác hơn là truyền thống lịch sử hào hùng về dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và lịch sử dân tộc thời đại Hồ Chí Minh đã đúc kết. Đọc kỹ cái gọi là bản "góp ý" kiểu tóm tắt của họ mới thấy, cái gọi là “Thần đạo Việt Nam” do họ tạo dựng nên, thực chất chỉ là sự góp nhặt lộn xộn, đầy mâu thuẫn và đối lập với những giá trị trong đời sống hiện thực của đất nước và của dân tộc Việt Nam hiện nay, nhất là đối lập với nền tảng tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Còn nhiều vấn đề sai lạc, lệch chuẩn và phản động về chính trị ở cái gọi là bản “góp ý” này. Như để lôi kéo được nhiều người, thủ đoạn của họ khá tinh vi, tựu trung ở một số thủ đoạn chủ yếu sau: 1) Trưng ra một câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi đó như tấm “bùa hộ mệnh” để không ai có thể phản biện hoặc phê phán họ; 2) Đưa ra những câu từ phức hợp, lươn lẹo, “nửa đúng, nửa sai” hòng tuyên truyền, đánh lạc hướng người đọc, từ đó phủ nhận cái đúng, dụ dỗ và chiếm đoạt niềm tin của những người kém hiểu biết; 3) Núp bóng danh hiệu của tập thể anh hùng, mượn danh cựu chiến binh để gây lòng tin với người đọc; 4) Núp bóng thư gửi lãnh đạo cấp cao của Đảng để hòng thu hút, lôi kéo mọi người chú ý; 5) Rỉ tai, phát tán tờ rơi, in ấn bừa bãi, không đúng quy định của pháp luật về xuất bản phẩm...

Chỉ phân tích bước đầu về những tư tưởng và hành động sai trái trên đây của những người tự cho là “góp ý” vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, cho thấy họ không có động cơ đóng góp đúng đắn cho Đảng, Nhà nước, trái lại, đó là sự tuyên truyền những tư tưởng sai lạc, lệch chuẩn đến phản động về chính trị, thông qua những thủ đoạn mới tinh vi, xảo quyệt. Tuy nhiên, với nhận thức chính trị đúng đắn và tinh thần yêu nước sắt son, nhân dân Việt Nam không dễ mắc mưu cái gọi là “thần linh, thần đạo" nhăng nhít của những người tâm địa đen tối.

Đại tá, PGS, TS NGUYỄN VĂN QUANG - Trưởng ban Nghiên cứu tổng kết lý luận, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự

 Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, tiêu ngữ "Độc lập-Tự do-Hạnh phúc" gắn liền quốc hiệu Việt Nam suốt 75 năm qua.


Nhân kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, VnExpress phỏng vấn PGS.TS Lý Việt Quang - Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) về tư tưởng "Độc lập-Tự do-Hạnh phúc" được nêu trong bản Tuyên ngôn độc lập vang lên tại quảng trường Ba Đình mùa thu năm 1945.

PGS. TS Lý Việt Quang - Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Ảnh: Hoàng Thuỳ

- Theo ông, đâu là ngọn nguồn của tư tưởng về quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc được nêu trong bản Tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước CHXHCN Việt Nam?

- Ngọn nguồn của tư tưởng về quyền tự do, độc lập trong bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất chống ngoại xâm - mạch nguồn xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước làm cho dân tộc luôn đứng vững trước những khó khăn, thách thức, không cam chịu khuất phục trước bất cứ thế lực cường quyền nào.

Cùng với mạch nguồn đó, trong quá trình tìm đường cứu nước và trở về lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chắt lọc được nhiều giá trị tinh hoa của nhân loại. Từ tư tưởng của các nhà dân chủ tư sản, như trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp (1791), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc không phải của riêng chủ nghĩa tư bản hay riêng dân tộc nào, mà là giá trị chung của toàn thể nhân loại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng tiếp cận và đánh giá cao chủ nghĩa Tam dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của nhà cách mạng Trung Quốc thời kỳ cận đại Tôn Trung Sơn; cho rằng chủ nghĩa Tam dân có nhiều điểm phù hợp với cách mạng Việt Nam.

Đặc biệt, khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh được tiếp cận với học thuyết về sự giải phóng triệt để con người. Lý tưởng lớn nhất của con người là sự giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công, thực hiện sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

Bên cạnh những mạch nguồn lý luận trên, cội nguồn của tư tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập còn xuất phát từ khát vọng của dân tộc Việt Nam trong gần một thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân và phát xít. Đất nước bị xóa tên trên bản đồ thế giới, người dân kiệt quệ, lầm than. Thông qua Hồ Chí Minh, yêu cầu của lịch sử, của dân tộc Việt Nam đã được đáp ứng, đó là tìm con đường để giải phóng triệt để dân tộc, làm cho dân tộc được hồi sinh trở lại.

- Sáu chữ "Độc lập-Tự do-Hạnh phúc" đã đi liền cùng quốc hiệu Việt Nam trong 75 năm qua. Điều này có ý nghĩa như thế nào?

- Đây là sáu chữ dành cho tất cả mọi người, không phân biệt nam hay nữ, giàu hay nghèo, sang hay hèn, không phân biệt miền xuôi hay miền ngược, tôn giáo, trở thành giá trị chung của dân tộc Việt Nam trong suốt 75 năm qua.

Độc lập, tự do, hạnh phúc là lý tưởng, để đi đến được là cả một hành trình. Việt Nam đã đi được những bước rất dài. Từ đất nước bị xóa tên trên bản đồ thế giới, trở thành quốc gia có chế độ chính trị độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và tự quyết định con đường phát triển của mình. Non sông thống nhất, liền một dải từ Bắc vào Nam.

Quyền tự do của người dân đã được khẳng định và thể chế hoá bằng Hiến pháp, pháp luật. Những giá trị hạnh phúc thực sự cũng đã được mang lại cho người dân trên mọi miền Tổ quốc. Hạnh phúc trước hết là cảm nhận chủ quan của mỗi cá nhân, nhưng nền tảng cho hạnh phúc cá nhân là đất nước hòa bình, các lĩnh vực kinh tế - xã hội đều phát triển; GDP bình quân đầu người tăng từ 1.332 USD/người năm 2010 lên khoảng 3.000 USD/người năm 2020; công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được nhiều thành tựu... Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam được xếp hạng vào nhóm cao trên thế giới.

Lý tưởng là bất biến, nhưng chỉ số để đo thì cần được nâng lên theo tầm thời đại. Hạnh phúc trước đây với nhiều người chỉ là được ăn những bữa cơm không độn khoai, sắn, nhưng hạnh phúc bây giờ không còn đơn giản như vậy. Vì thế, chúng ta đang trong hành trình nỗ lực không ngừng để đạt đến lý tưởng của độc lập, tự do, hạnh phúc, với mục tiêu được cụ thể hóa là "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu

- Theo ông, cần làm những gì để tiếp tục thực hiện và phát triển lý tưởng này?

- Độc lập, tự do, hạnh phúc là giá trị chung của nhân loại, cũng là giá trị mà Việt Nam hướng đến từ khi nước Việt Nam mới ra đời. Để tiếp nối giá trị đó có nhiều công việc cần làm, trong đó theo tôi cần tập trung vào ba việc cơ bản.

Trước hết, chúng ta phải khẳng định và kiên định con đường đã đi là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã được minh chứng bằng thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, thắng lợi vẻ vang của 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới 35 năm qua. Con đường này cũng hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của dân tộc, cũng như với xu hướng phát triển của thời đại.

Thứ hai, để có được thắng lợi của cách mạng Việt Nam thì người lãnh đạo phải đủ tâm, đủ tầm, vừa là đạo đức, vừa là văn minh để quy tụ, thuyết phục, đủ sức tổ chức, lãnh đạo nhân dân. Người lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản Việt Nam phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện tiên quyết cho thắng lợi của cách mạng, bởi lãnh đạo mà sai thì đất nước sẽ đi sai đường, nên người lãnh đạo phải là tinh hoa, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, phẩm giá của dân tộc.

Bên cạnh nhiệm vụ xây dựng đất nước, Đảng cũng phải chú trọng nhận diện và phòng chống hữu hiệu nguy cơ suy thoái, bởi vì bất kỳ đảng nào nắm chính quyền cũng có nguy cơ bị quyền lực làm cho tha hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc, phải chú ý căn bệnh chủ nghĩa cá nhân mà thời kỳ hiện đại có rất nhiều biến tướng. Tại Hội nghị Trung ương 4 (khoá XII), Đảng cũng đã chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái, trong đó 9 biểu hiện về tư tưởng chính trị, 9 biểu hiện về đạo đức lối sống và 9 biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá".

Đặc biệt, Đảng phải chống căn bệnh chủ nghĩa cá nhân vì nó ẩn nấp trong mỗi con người, chờ khi người ta hoặc là thắng lợi, hoặc là sai lầm, thì mới xuất đầu lộ diện. Thắng lợi thì chủ quan, tự mãn, kiêu ngạo, còn sai lầm thì bi quan, chán nản. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, chủ nghĩa cá nhân bịt mắt những nạn nhân của nó. Vậy nên mới có những người được Đảng, Nhà nước tín nhiệm giao giữ những cương vị cấp cao, có công lao, cống hiến, nhưng trên cương vị đó lại mắc những sai lầm, khuyết điểm để bị kỷ luật, thậm chí bị truy tố.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nhắc nhở, một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được quần chúng yêu mến và ca ngợi nếu như lòng dạ không trong sáng nữa, nếu như sa vào chủ nghĩa cá nhân. Đó là sự cảnh tỉnh rất sâu sắc, là chân lý của mọi thời đại mà Đảng cầm quyền phải luôn nhớ.

Thứ ba, một việc quan trọng nữa là nếu chỉ có Đảng, đường lối, con người đi tiên phong thôi thì không đủ, mà cần phải có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Vì vậy, Đảng phải tổ chức được lực lượng của quần chúng, xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cách mạng tháng Tám thành công lúc chỉ có khoảng gần 5.000 Đảng viên, đó là nhờ sự ủng hộ của nhân dân. Đồng thời, trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải mở rộng ra thế giới, thực hiện đoàn kết quốc tế rộng rãi, tranh thủ được sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, vì trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá, không một quốc gia nào có thể đứng ra ngoài sự phát triển chung của nhân loại.

- Cảm xúc của ông mỗi lần đọc lại Tuyên ngôn độc lập vào dịp mùa thu đến?

- Mỗi dịp 2/9, đọc lại bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi cảm thấy tự hào là người Việt Nam, một dân tộc trong 75 năm qua đã quyết "đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập".

Tôi cũng biết ơn sâu sắc đối với sự hy sinh, cống hiến của biết bao anh hùng, liệt sĩ, những người đi trước để có cuộc sống hoà bình, hạnh phúc của đất nước ngày hôm nay.

Trước đây cha ông giành được độc lập thì bây giờ thế hệ chúng ta phải làm cho nền độc lập, tự do đó được phát triển. Trước đây chỉ cần đánh thắng đế quốc, thực dân, nhưng bây giờ phải đánh thắng đói nghèo, lạc hậu để Tổ quốc giàu mạnh, có được vị thế xứng đáng trên trường quốc tế, đời sống của người dân ngày càng hạnh phúc, ấm no. Tôi tin rằng đó cũng là suy nghĩ của rất nhiều người thế hệ ngày nay.

Hoàng Thùy (Vnexpress)

     Dương Đình Phúc bị phạt 5 triệu đồng vì đăng tải bài viết không đúng sự thật về việc cài đặt ứng dụng Bluezone.


Ngày 31/8, Công an tỉnh Bắc Ninh ra quyết định xử phạt hành chính 5 triệu đồng đối với ông Dương Đình Phúc (36 tuổi, người địa phương) về hành vi Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.

Ngày 10/8, trên tài khoản mạng xã hội có tên "Dương Phúc", ông Phúc đưa ra những thông tin không chính xác về việc triển khai, cài đặt Bluezone và kêu gọi mọi người không cài đặt ứng dụng này.

Dương Đình Phúc bị xử phạt tại cơ quan công an. Ảnh cắt từ clip

Tại cơ quan công an, ông Phúc thừa nhận đã sao chép thông tin sai lệch về việc cài đặt Bluezone và đăng tải lên trang cá nhân.

Sau khi được lực lượng chức năng giải thích, nhắc nhở, ông Dương Đình Phúc đã nhận thức được hành vi vi phạm, gỡ bài viết và cam kết không tái phạm.

Hoài Linh (Zingnews)

 Đã gần 2 năm kể từ khi Luật An ninh mạng chính thức có hiệu lực thực thi. Thế nhưng, đến nay trên các trang mạng xã hội và một số nhà dân chủ “quen mặt đặt tên” tung ra những bài viết có ý đồ xấu, cố tình suy diễn về bộ luật này. Mới đây, trên trang Việt Tân lại tiếp tục gào thét qua bài viết của Lê Ánh với tiêu đề “Luật An ninh của Bộ trưởng Tô Lâm” với những luận điệu xuyên tạc khiến người dân hoang mang.


Hình ảnh bài viết xuyên tạc Luật An mạng, công kích Bộ trưởng Tô Lâm của Lê Ánh trên trang Việt Tân

Thứ nhất, Lê Ánh cho rằng “Cũng vì Luật An ninh mạng mà người dân bị công an không cho nói những điều dân muốn nói” thì xin hỏi ông trong Luật An ninh mạng có điều, khoản hay câu chữ nào nói là công an ngăn cản người dân chia sẻ quan điểm, ý kiến lên mạng xã hội hay không? Một cô nàng hotgirl bốc phốt anh chồng diễn viên nổi tiếng ngoại tình lên mạng xã hội; rồi thì chuyện ông Đoàn Ngọc Hải mua một chiếc xe hơi rồi cải hoán, xin cấp phép hoạt động, tự mình cầm lái chở bệnh nhân nghèo miễn phí; hay như chuyện kết quả thi tốt nghiệp THPT vừa qua có em học sinh đạt điểm 10 môn Văn… đều đang là đề tài được người dân bàn tán, tự do bày tỏ quan điểm riêng về những vụ việc trên Facebook, Twitter, Youtube… thì xin hỏi như vậy có gọi là Luật An ninh mạng ngăn cản quyền tự do ngôn luận, bịt miệng người dân không, thưa tác giả Lê Ánh?

Thứ hai, Lê Ánh nói rằng “vì Luật An ninh mạng mà đã có nhiều người dân bị công an đàn áp thẳng tay. Cũng vì Luật An ninh mạng mà nhiều người bị công an đẩy vào vòng lao lý”, thì xin hỏi tác giả Lê Ánh những người dân mà ông nói bị “đẩy vào vòng lao lý” đó là ai? Hay là những kẻ cùng hội cùng thuyền trong “làng dân chủ” với Lê Ánh như Nguyễn Tường Thụy; Phạm Chí Dũng, Phạm Thành, Lê Hữu Minh Tuấn? Nói thẳng luôn là chỉ có những kẻ dùng mạng xã hội đăng tải những thông tin xuyên tạc, tin giả, ngăn cản con đường phát triển của đất nước, vi phạm pháp luật mới bị xộ khám, chứ đàn áp gì ở đây. Những bài viết sai sự thật, kích động đó vẫn còn đang nhan nhản trên mạng xã hội đó, làm sao chối cãi được. Hơn 65 triệu người dân Việt Nam đang sử dụng mạng xã hội hàng ngày, hàng giờ vẫn đang thoải mái chia sẻ hình ảnh, bài viết cả đấy, họ có bị “rơi vào vòng lao lý” như lời Lê Ánh nói hay không?

Những kẻ dùng mạng xã hội đăng tải những thông tin xuyên tạc, tin giả, ngăn cản con đường phát triển của đất nước, vi phạm pháp luật mới bị xộ khám, chứ đàn áp gì ở đây.

Thứ ba, về lập luận mà Lê Ánh cho rằng “Luật An ninh mạng là nguyện vọng của ông Tô Lâm, chứ không phải của người dân”, lập luận này hoàn toàn là bịa đặt và xuyên tạc. Bởi theo quy định của Luật An ninh mạng ra đời để bảo vệ người dân khi tham gia hoạt động trên không gian mạng với điều 17 “sẽ giúp bảo vệ người dân trước các hoạt động gián điệp mạng, bảo vệ bí mật cá nhân, tổ chức, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng…”; điều 18 “giúp bảo vệ người dân khỏi các hoạt động tội phạm mạng, như chiếm đoạt tài sản, trộm cắp thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng…”; điều 19 “trao công cụ để bảo vệ người dân khỏi hoạt động tấn công mạng, như phát tán mã độc, tấn công từ chối dịch vụ…”.

Minh chứng là vụ việc dữ liệu camera riêng tư của ca sĩ Văn Mai Hương bị đột nhập, đánh cắp và phát tán trên mạng xã hội; hay hàng vạn những trường hợp các cá nhân bị tin tặc tấn công hay máy tính doanh nghiệp nhiễm mã độc, thông tin bí mật bị xâm nhập thiệt hại về uy tín, danh phẩm, thương hiệu… đã cho thấy Luật An ninh mạng cần thiết với người dân và doanh nghiệp như thế nào.


Không phải vô cớ mà Nga siết chặt quản lý Facebook; Anh, Đức đưa ra Luật An ninh mạng, khuyến cáo những tập đoàn như Facebook, Google, Youtube phải tuân thủ quy định của nước mình; rồi Nhật Bản – một quốc gia đi đầu trong công nghệ thông tin ở Châu Á cũng bắt đầu đặt dấu chấm hỏi về Facebook, Google vì những liên quan đến tính bảo mật thông tin khách hàng; Chính phủ Ấn Độ yêu cầu Facebook, Google đặt máy chủ trong nước để bảo vệ sự riêng tư của công dân mình. Hay mới đây, ngày 28/5, Tổng thống Donald Trump ký sắc lệnh về mạng xã hội, và ông còn khẳng định hành động này nhằm “bảo vệ quyền tự do ngôn luận trước một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất trong lịch sử nước Mỹ”. Rõ ràng, Luật An ninh mạng ra đời chính là phục vụ nhu cầu của người dân và doanh nghiệp, chứ nào phải “phục vụ cho riêng Bộ trưởng Tô Lâm hay vị lãnh đạo nào khác” như não trạng của Lê Ánh nói ra, nó hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại.

Việc thông qua Luật An ninh mạng và có hiệu lực từ ngày 01/01/2019 là bước đi trước nước Mỹ của Việt Nam. Khi luật đi vào cuộc sống, môi trường mạng xã hội lành mạnh hơn, những người sử dụng mạng cảm thấy an tâm, được bảo vệ, quyền tiếp cận các thông tin sạch của người dân không bị hạn chế. Chỉ có những kẻ chống đối, cơ hội, đưa tin sai sự thật, với động cơ đen tối như Lê Ánh mới sợ Luật An ninh mạng.

Lê Ánh “bô bô” lên là nhân danh chính nghĩa, tương lai của đất nước, lo lắng cho người dân thế nhưng, nhìn những gì mà ông chia sẻ ở trên thì có thể thấy ông lại cố đấm ăn xôi, lôi kéo dư luận vào mục đích xấu xa của mình là xuyên tạc Luật An ninh mạng, qua đó tấn công uy tín của của Bộ trưởng Tô Lâm. Đại hội 13 sắp đến, sẽ còn rất nhiều bài viết, hình ảnh sai sự thật nhắm vào các lãnh đạo Việt Nam, mọi người cần tỉnh táo để không trở thành con lừa, bị các đối tượng dắt mũi.

Thế Khoa

 Các đối tượng phản động, cơ hội chính trị đặt điều xuyên tạc, phát tán những thông tin sai lệch về tình hình dịch bệnh, trong đó có công tác hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả do dịch gây ra nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta.


Dịch COVID-19 bùng phát trở lại vào cuối tháng 7 vừa qua đang diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, gây trở ngại cho sự phát triển các mặt đời sống xã hội. Đảng, hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, các cấp, các ngành cùng nhân dân đã và đang đồng sức, đồng lòng, quyết tâm đẩy lùi dịch bệnh. 

Vậy mà, các đối tượng phản động, cơ hội chính trị lại đặt điều xuyên tạc, phát tán những thông tin sai lệch về tình hình dịch bệnh, trong đó có công tác hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả do dịch gây ra nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Nhận diện thủ đoạn

Trong đợt dịch COVID-19 bùng phát trở lại, các thế lực thù địch đã tăng cường đăng tải, tán phát nhiều thông tin xuyên tạc, bóp méo sự thật về tình hình dịch bệnh tại Việt Nam; họ vin vào những khó khăn, bất cập trong thực hiện việc hỗ trợ do dịch gây ra ở một số địa phương để quy kết, bôi nhọ Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương, tác động xấu đến tâm lý nhân dân, gây hại tới an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.

Việt Tân xuyên tạc công tác hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả do dịch COVID-19 gây ra.

Để hoàn thành mục đích trên, họ triệt để khai thác tính năng lan tỏa nhanh của internet thông qua các trang mạng xã hội như: youtube, facebook, blog… để tán phát nhiều bài viết, hình ảnh, video clip có nội dung tuyên truyền xuyên tạc, sai sự thật. Điển hình là: Trên facebook của tổ chức phản động Việt Tân đã chia sẻ bài viết: “Hà Nội: Nhà giàu nhận hỗ trợ, hộ nghèo trắng tay”, hay trên trang facebook TNCG đăng tin: “Đảng nhận viện trợ quốc tế mà để dân chờ mãi chẳng thấy gì”…

Những năm gần đây, “xã hội dân sự” được nhiều cá nhân bất mãn chính trị và các thế lực thù địch thường xuyên đề cập trên một số diễn đàn mạng xã hội. Đằng sau việc hô hào phát triển "xã hội dân sự" theo mô hình phương Tây, các thế lực thù địch âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chống phá sự nghiệp đổi mới của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta.

Lợi dụng việc đề cao các quyền lập hội, quyền công dân, quyền tự do tôn giáo và quyền tự do báo chí, các thế lực thù địch bên ngoài cấu kết với các phần tử thoái hóa, biến chất, bất mãn chính trị bên trong đã thổi phồng và lợi dụng chiêu bài “xã hội dân sự” để chống phá quyết liệt. Chúng tìm cách lôi kéo quần chúng vào các nhóm, hội, diễn đàn tự phát với nội dung: Đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng; bảo vệ môi trường, dân chủ, nhân quyền… để tập hợp lực lượng qua các mạng xã hội, như: Diễn đàn xã hội dân sự, Hội Anh em dân chủ, Văn đoàn độc lập, Hội Nhà báo độc lập, Hội Phụ nữ nhân quyền…

Mặc dù hoạt động theo phương thức tự phát nhưng các hội nhóm này luôn có sự liên kết nhau và câu kết chặt chẽ với các tổ chức phản động bên ngoài để phát triển lực lượng, hình thành các hội nhóm hoạt động “bất bạo động” tuyên truyền, kích động tư tưởng ly khai, tự trị, xuyên tạc lịch sử, khoét sâu mâu thuẫn dân tộc, gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, làm giảm sút lòng tin của quần chúng với Đảng, Nhà nước; tạo tiền đề tập hợp, phát triển lực lượng, hình thành tổ chức chính trị đối lập. Các thế lực thù địch còn tìm cách tuyệt đối hóa tính độc lập tương đối của XHDS nhằm từng bước làm cho các tổ chức XHDS trở thành tổ chức chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước ta; ra sức tuyên truyền XHDS là hiện thân của tự do, dân chủ và những gì tốt đẹp trong xã hội; đả kích, xuyên tạc, phủ nhận bản chất nhà nước XHCN, coi đó là mô hình nhà nước độc tài, toàn trị, không có khả năng điều hành xã hội, không phát huy dân chủ vì thiếu XHDS. Các thế lực thù địch tìm cách xoáy sâu, thổi phồng những tiêu cực, hạn chế của mặt trái nền kinh tế thị trường ở nước ta, những thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tệ nạn tham nhũng, hối lộ… nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta.

Với lập luận, XHDS là “đối quyền của quyền lực nhà nước” để tập trung đòi thực hiện trách nhiệm xã hội, chia sẻ quyền lực chính trị cho XHDS; thực chất là cổ vũ tư tưởng coi nhà nước đối lập với XHDS; kích động thái độ vô chính phủ, lấy phá hoại thay cho xây dựng hòng từng bước đưa XHDS thành lực lượng đối trọng với Đảng, Nhà nước. Các đối tượng lợi dụng mạng xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng để phát tán thông tin bịa đặt, bôi nhọ Đảng, chính quyền; tung hô những đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị, số cán bộ tha hóa, bất mãn; phủ nhận, xét lại lịch sử và giá trị văn hóa dân tộc; kích động tư tưởng vô chính phủ, tuyên truyền các giá trị ưu việt của văn hóa phương Tây, làm phai nhạt lý tưởng, giảm sút lòng tin của các cán bộ, đảng viên đối với Đảng, Nhà nước, từ đó làm “đổi màu” các tổ chức chính trị, xã hội, các cơ quan do dân bầu.

Thông qua dự án tài trợ, tổ chức hội thảo, tập huấn, trao đổi nghiệp vụ..., không ít tổ chức phi chính phủ (NGO) ngoài nước đã tìm cách tiếp xúc, móc nối, mua chuộc số cán bộ, đảng viên thoái hóa để tuyên truyền, kích động tâm lý bất mãn, lôi kéo họ thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước. Chúng khai thác, lợi dụng internet để phát tán thông tin thất thiệt, bịa đặt, bôi nhọ Đảng, chính quyền và các đồng chí lãnh đạo; tung hô những chức sắc tôn giáo, trí thức, văn nghệ sĩ bất mãn, cơ hội chính trị; kích động tư tưởng vô chính phủ, tuyên truyền các giá trị ưu việt của văn hóa phương Tây... Mục đích cuối cùng là làm “đổi màu” các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, từ đó phê phán công cuộc đổi mới, tiến tới đòi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” đã xác định hành vi phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi phát triển "xã hội dân sự"… là một trong những hình thức “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nhanh nhất. Nếu cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân không hiểu rõ bản chất, nắm vững vấn đề thì rất dễ “nhiễm độc”.

Hiện nay, nước ta có gần 400 hội đang hoạt động trên phạm vi toàn quốc; trên 600 tổ chức nghiệp đoàn đang hoạt động tại các địa phương và khoảng hơn 600 tổ chức phi chính phủ nước ngoài có quan hệ với Việt Nam, trong đó có gần 400 tổ chức có các chương trình, dự án triển khai tại nước ta. Riêng tôn giáo (một trong những lĩnh vực được các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước ta), quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân thời gian qua cũng hết sức được coi trọng.

Trước tình hình trên, việc đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng “xã hội dân sự” chống phá Việt Nam là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Trong đó, vấn đề đầu tiên là phải phân biệt, đánh giá đúng vai trò, vị trí của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp để tập trung lãnh đạo, định hướng tuân thủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực đóng góp cho sự nghiệp xây dựng đất nước; cảnh giác trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, không để bị tác động, lôi kéo vào các hành vi làm tổn hại đến đất nước. Muốn vậy, bản thân các tổ chức này cũng cần phải tự thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động, gắn bó mật thiết hơn với đời sống xã hội và thành viên của tổ chức mình.

Ngoài ra, một vấn đề rất quan trọng cần được làm thường xuyên, liên tục là nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức quần chúng. Trong đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần phát huy tốt hơn chức năng phản biện xã hội, giám sát, vận động nhân dân cùng tham gia giám sát, phản biện, góp ý kiến trong việc hoạch định cơ chế, chính sách nhằm góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị từ trung ương tới cơ sở trong sạch, vững mạnh, tiếp tục phát huy tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Cùng với đó, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các hội và tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam; kiên quyết xử lý các tổ chức hội, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động vi phạm pháp luật; kịp thời ban hành các chủ trương, chính sách, xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp, điều chỉnh hoạt động của các tổ chức xã hội theo đúng định hướng phát triển đất nước.

Đặc biệt, đối với các tổ chức hội, cá nhân có biểu hiện hoạt động phức tạp, có dấu hiệu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, lợi dụng tự do, dân chủ chống, phá Đảng, Nhà nước, nhân dân cần phải bị xử lý nghiêm khắc; cùng với đó là tăng cường đối thoại, tiếp xúc, cảm hóa chính trị đối với quần chúng, nhân dân bị các thế lực thù địch lôi kéo nhằm thực hiện ý đồ chống đối từ bên trong, tạo ổn định chính trị, giữ vững trật tự an toàn xã hội để đất nước phát triển./.

Quan họ áo xanh

Hàng loạt các quan chức sai phạm, dù là về hưu hay còn đương nhiệm đều bị xử lý nghiêm khắc, đúng người, đúng tội và thu được số tiền trục lợi bất chính về cho ngân sách nhà nước. Cuộc chiến chống tham nhũng được thực hiện xuyên suốt, thậm chí cường độ ngày càng “ép-phê” hơn, khi Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Xử lý mạnh hơn, không nhụt chí trước tham nhũng, không phải vì Đại hội Đảng mà chùng lại”. Các thành viên Bộ Chính trị nêu quan điểm tiếp tục đẩy mạnh công tác chống tham nhũng, tiếp tục tổ chức điều tra, phát hiện tới đâu, xử lý tới đó. 

Tham nhũng được xử lý tận gốc. Đến cán bộ cao cấp, nguyên ủy viên Trung ương, nguyên bộ trưởng sai phạm đều được đưa ra trước tòa.

Từ chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: xử lý tham nhũng nghiêm minh không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai. Hàng loạt các vụ án chấn động, các cán bộ tham nhũng được đưa ra xét xử. Điển hình gần đây nhất là đại án MobiFone, cựu bộ trưởng TT&TT, ông Nguyễn Bắc Son ăn hối lộ 3 triệu USD đã lãnh mức án tù chung thân và phải nộp lại toàn bộ số tiền thu lợi bất chính trên; cựu bộ trưởng TT&TT, ông Trương Minh Tuấn bị phạt 14 năm tù và phải nộp lại 200.000 USD ăn hối lộ; ông Lê Nam Trà, cựu chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng Công ty Viễn thông MobiFone, 23 năm tù và nộp 2,5 triệu USD; ông Cao Duy Hải, cựu tổng giám đốc MobiFone, bị 14 năm tù, nộp 500.000 USD.

Ban Chỉ đạo nêu ra hàng loạt vụ án phải xử lý trong năm 2020, trong đó có các vụ nổi cộm: “Buôn lậu, rửa tiền” xảy ra tại Công ty Nhật Cường; Vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí, tham ô tài sản” xảy ra tại Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn (Sagri); Vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” xảy ra tại dự án Cải tạo và mở rộng sản xuất giai đoạn 2 – Công ty Gang thép Thái Nguyên; Vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí” liên quan đến dự án 8-12 Lê Duẩn, Quận 1, TP.HCM… Đó là những vụ án nhức nhói, gặm nhấm, hút máu không biết bao nhiêu tài nguyên của quốc gia, sự thiệt hại không chỉ có tiền, mà còn làm cản trở sức bật phát triển của đất nước, trong giai đoạn hội nhập, đất nước cần nguồn lực để đón đầu.

Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, các cơ quan có thẩm quyền đã thi hành kỷ luật hơn 90 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 21 ủy viên Trung ương Đảng, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, hai ủy viên Bộ Chính trị.

Tham nhũng được ví như những con bọ chét hút máu, bên cạnh con to nhất luôn có những con bọ nhỏ kèm theo. Con càng lớn thì hút máu càng nhiều, gây nhiều thiệt hại, làm ảnh hưởng càng nhiều đến sức khỏe vật chủ. Như những con bọ ẩn nấp tinh vi, cán bộ tham nhũng cũng vậy, không bao giờ có một cá nhân tham nhũng mà là cả một đường dây, năm, bảy người. Khi những người cán bộ chức càng cao, không giữ được mình, lòng tham không được “nhốt lại” thì sai phạm càng lớn, đồng bọn càng đông và độ mưu mô xảo quyệt, xóa dấu vết càng tinh tường.

Để đưa những vị cán bộ tham nhũng, phá hoại tiền ngân sách ra ánh sáng, đó là cả quá trình khó khăn, gian nan và đầy thử thách. Đòi hỏi các lực lượng thực thi công vụ, điều tra không chỉ giỏi nghiệp vụ, mà còn phải bản lĩnh, biết giữ mình và không bị cám dỗ, lôi kéo. Khó như vậy đó, cho nên, khi thấy những con “bọ” tham nhũng, đục khoét, hút máu đất nước lần lượt được lôi ra ánh sáng pháp luật, rồi đứng trước vành móng ngựa, người dân ai cũng vui mừng. Chính sự quyết liệt, hành động cụ thể trong công tác chống tham nhũng – diệt giặc nội xâm của Bộ Chính trị ngày càng nhận được sự đồng tình, ủng hộ của người dân.

Một con “bọ chét” được loại trừ, đưa ra khỏi hàng ngũ cán bộ, không chỉ giúp thanh sạch hệ thống chính quyền, là động lực để hệ thống công quyền phục vụ tốt hơn cho nhân dân, giúp đất nước có nhiều hơn các cơ hội để phát triển, mà trên hết là thiết lập kỷ cương, đủ tính răn đe cho những ai lăm le sai phạm, nhìn vào đó mà cảnh tỉnh.

Và cho đến ngày hôm nay, quan điểm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước là tiếp tục đẩy mạnh công tác chống tham nhũng, tiếp tục tổ chức điều tra, phát hiện tới đâu, xử lý tới đó. Quan điểm xuyên suốt của Bộ Chính trị trong công tác chống tham nhũng: không có vùng cấm, không loại trừ bất kỳ ai dù ở cương vị nào. Ấy vậy mà, các thành phần chống phá, tổ chức Việt Tân, các thành phần lưu vong dựng chuyện, xuyên tạc trắng trợn thành “Bộ Chính trị bảo vệ cho tham nhũng; không trinh sát Đảng viên”, mục đích vẽ nên bức tranh xám xịt cho chế độ, hòng gây mất niềm tin, chia rẽ nhân dân và chính quyền. Đây là những thủ đoạn đã quá quen thuộc mà những kẻ chống phá thực hiện. Tuy nhiên, dù có xảo biện, hay sử dụng bất cứ kỹ xảo nào, những kẻ cơ hội chính trị cũng không thể thay đổi được sự thật. Nhất là trong thời đại 4.0, các kênh thông tin rộng mở, ngay cả Quốc hội họp, đại biểu phát biểu vấn đề gì, cũng được truyền thông rộng rãi, trên tinh thần dân chủ, minh bạch, dân biết, dân bàn thì “tin vịt” của những bàn tay nhám nhúa, dã tâm đen tối làm sao qua mặt được người dân Việt Nam.

Muốn biết chế độ như thế nào, các cơ quan công quyền phục vụ người dân ra sao, chỉ cần nhìn vào sự phát triển của đất nước, sự hài lòng của số đông người dân là phần nào đánh giá được. Với sự ủng hộ của người dân trong công cuộc chống tham nhũng của Đảng, mỗi khi có cán bộ nào sai phạm bị kỷ luật, cách chức, truy tố, người dân lại hồ hởi nói “củi lại vào lò” – hẳn là ai cũng biết, uy tín và niềm tin của Đảng trong dân?!

Hải Yến

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.