Buổi Lễ xuất quân cho đội tuyển nữ Việt Nam lên đường tham dự VCK World Cup 2023 đã diễn ra vào sáng ngày 4/7, với sự tham dự của các lãnh đạo của Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (VFF). Tuy nhiên, sự kiện này đã gây tranh cãi và dư luận xôn xao vì một bức ảnh xuất hiện sau buổi lễ, gây ra những đánh giá không công bằng về thái độ của các lãnh đạo. Tuy nhiên, cần phải nhìn vào toàn cảnh để có cái nhìn chính xác về sự việc này.

Các lạnh đạo chụp hình lưu niệm cùng đội tuyển nữ Việt Nam.

Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch LĐBĐVN Trần Quốc Tuấn đã nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử của việc đội tuyển nữ Việt Nam lần đầu tiên tham dự VCK bóng đá thế giới. Ông cũng đề cập đến những thành tựu quan trọng mà đội tuyển đã đạt được như giành HCV SEA Games, thi đấu tại AFF Cup và vượt qua vòng loại Olympic 2024. Bản phát biểu này thể hiện sự tôn trọng và đánh giá cao công sức và thành tựu của các cầu thủ nữ Việt Nam. Cũng tại buổi lễ, toàn đội đã nhận được tiền thưởng 1 tỷ đồng từ một nhà tài trợ, như là nguồn động viên lớn trước khi lên đường tham dự giải.

Tuyển nữ Việt Nam trong buổi lễ xuất quân tham dự VCK World Cup nữ 2023

Tuy nhiên sự việc sẽ không có gì cho tới khi các trang báo mạng chỉ đăng tải bức ảnh lãnh đạo chụp ảnh lưu niệm chung nhưng lại khuất tầm nhìn với các cầu thủ gây nên nhiều ý kiến trái chiều, bức ảnh gây tranh cãi chỉ là một góc nhìn hạn chế và không thể đại diện cho thái độ của các lãnh đạo. Có nhiều hình ảnh với nhiều góc chụp khác như chụp riêng đội tuyển, chụp với lãnh đạo hay nhà tài trợ được công bố cho thấy sự chuyên nghiệp và tôn trọng của ban tổ chức và các lãnh đạo đối với đội tuyển nữ Việt Nam. Việc chỉ lấy một bức ảnh nhất thời để đánh giá toàn bộ sự kiện là không công bằng và thiếu trung thực.

Đơn vị đồng hành cùng bóng đá Việt Nam đã tài trợ 1 tỷ đồng cho đội tuyển nữ Việt Nam.

Đáng tiếc, truyền thông đã lan truyền bức ảnh này mà không đưa ra đầy đủ thông tin và góc nhìn đa chiều. Sự thiếu chuyên nghiệp trong việc sắp xếp và lựa chọn bức ảnh đã tạo ra những hiểu lầm không đáng có và dẫn đến chỉ trích không công bằng về thái độ của các lãnh đạo. Chúng ta cần đánh giá công bằng và tránh xây dựng những đánh giá sai lệch dựa trên một góc nhìn hẹp.

Trong hành trình sắp tới của bóng đá Việt Nam, đặc biệt là đội tuyển nữ, chúng ta cần sự đồng hành và ủng hộ của các lãnh đạo cùng với sự quan tâm từ các cơ quan truyền thông. Hy vọng rằng những hiểu lầm này sẽ được làm sáng tỏ và chúng ta có thể tập trung vào những thành tựu và cống hiến của đội tuyển nữ Việt Nam trong VCK World Cup 2023.

Theo kế hoạch, đội tuyển nữ Việt Nam sẽ lên đường sang New Zealand vào ngày 5/7. Đội sang sớm hơn 2 tuần trước ngày khai mạc để cùng làm quen với điều kiện thời tiết, thích nghi múi giờ… Đội sẽ còn 2 trận đấu giao hữu gặp đội tuyển nữ New Zealand vào ngày 10/7 và đội tuyển nữ Tây Ban Nha ngày 14/7.


 


Ngày 3/7, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm và tuyên án phạt bị cáo Phan Sơn Tùng (sinh năm 1984, trú tại phường Mộ Lao, quận Hà Đông, Hà Nội) 6 năm tù về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điều 117, khoản 1 – Bộ luật Hình sự.


Phan Sơn Tùng thời điểm bị khởi tố, bắt tạm giam, tháng 9/2022. 

Tổng số có 6 luật sư đăng ký tham gia bào chữa cho bị cáo Tùng. Tuy nhiên, tại phiên tòa, chỉ 3 luật sư bào chữa có mặt.

Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, ngày 1/3/2022, Cơ quan An ninh điều tra, Công an thành phố nhận được công văn, tài liệu kèm theo của Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Bộ Công an) đề nghị xác minh, xử lý vi phạm trong hoạt động sử dụng không gian mạng Internet liên quan đến đối tượng Phan Sơn Tùng.

Tùng có hình ảnh, lời nói, phát biểu trong một số video clip phát tán trên Facebook, Youtube với nội dung tuyên truyền, đả kích, nói xấu chế độ, xuyên tạc sai sự thật về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam; bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Trong đó, 11 video clip được phát tán trên kênh Youtube “Phan Sơn Tùng”, một video clip phát tán trên Facebook “Vì Việt Nam thịnh vượng”.

Cơ quan điều tra đã xác định, từ năm 2011, Phan Sơn Tùng đã tạo lập, quản lý và sử dụng 4 tài khoản mạng trực tuyến gồm: ba kênh Youtube “Vì Việt Nam thịnh vượng”, “Sơn Tùng TV”, “Phan Sơn Tùng” và một tài khoản Facebook mang tên “David Phan”.

Đến tháng 8/2022, tài khoản Facebook đã đăng lại hơn 1.000 video clip từ ba kênh Youtube trên. Các video clip thu hút trên 148 triệu lượt xem và 530.000 lượt theo dõi.

Ngoài ra, từ ngày 5-31/8/2022, Phan Sơn Tùng đăng tải qua kênh “Vì Việt Nam thịnh vượng” 10 video clip với nội dung kêu gọi thành lập tổ chức bất hợp pháp với tên gọi “Đảng Việt Nam thịnh vượng”… nhằm thu hút sự quan tâm của dư luận.

Các video clip trên được Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao thu thập. Phan Sơn Tùng cũng xác nhận đã truy cập vào kênh Youtube của mình và tự tải xuống 22 video nêu trên.

Cơ quan chức năng kết luận, quá trình quản lý các tài khoản mạng, Phan Sơn Tùng đã làm và phát tán 16 video clip có nội dung vi phạm pháp luật lên mạng Internet. Cụ thể, 26 nội dung có thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; 6 nội dung tuyên truyền thông tin gây chiến tranh tâm lý; 17 nội dung xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân… Các video clip này chủ yếu để tuyên truyền nhằm chống Nhà nước, chống Đảng, chống chính quyền.

Tại phiên tòa, Phan Sơn Tùng đã thừa nhận hành vi, thừa nhận các bài đã đăng tải là do bị cáo thực hiện nhưng không thừa nhận nội dung các bài viết đã đăng tải là vi phạm pháp luật./.

Nguồn: Nhân Quyền

 “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ” không chỉ “u mê hóa” thánh đồ, mà còn làm mai một tính thiện tự nhiên trong con người họ, khiến họ làm ác mà vẫn nghĩ mình đang sống đúng theo ý của “Đức Chúa Trời”.

Nếu so sánh các thông tin về “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ” và những câu chuyện đáng buồn từ nhiều thánh đồ của họ giai đoạn trước đây (2015-2019), với hàng loạt các tự bạch nóng sốt từ những người đã thoát khỏi nanh vuốt của tổ chức này trên truyền thông mấy tháng vừa qua, sẽ dễ dàng nhận ra có một điểm chung quan trọng, đó là chủ trương “u mê hóa” và “ác hóa” thánh đồ của tổ chức này.

Mục đích đằng sau đó không hề thánh thiện như những rao giảng hàng ngày của các “Đấng tiên tri”.

Một mặt, trước thánh đồ, các “Đấng tiên tri” vẫn rất “thành tâm” ca ngợi sự khổ nhục, nhẫn nại, khước từ mọi hưởng thụ của cuộc sống tạm bợ để chờ ngày tận thế, được lên “Nước Thiên Đàng”; được “sống sung sướng đời đời cũng “Đức Chúa Trời”. Mặt khác, họ vẫn bí mật tụ tập du lịch mỗi tháng, ăn uống no say mỗi tuần, và dùng tiền bắt buộc thánh đồ dâng cúng để thuê nhà to, mua sắm cho các nhu cầu cá nhân và gia đình họ.

Nếu chỉ lướt qua những biểu hiện ban đầu, nhiều người lầm tưởng “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ” là một tổ chức tà đạo thuần túy, tức chỉ tin vào một “chân lý”, một “đấng tối cao” (dù lệch lạc), và để cho niềm tin đó chi phối mọi mặt của đời sống. Nhưng điều này chỉ đúng với các thánh đồ, chứ không hề đúng với những người có chức sắc, như nhóm trưởng, chấp sự, truyền đạo sư…

Hơn ai hết, đám chức sắc này biết rõ những gì phải nói với thánh đồ và thực tế hoàn toàn trái ngược nhau. Nhưng thay vì thức tỉnh, rất nhiều người dù biết sự thật đen tối này vẫn chọn cách thỏa hiệp.

Trong một phóng sự điều tra thời gian gần đây, một trưởng nhóm đào thoát khỏi “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ” đã kể về hàng loạt góc khuất trong bộ máy của tổ chức. Anh này khẳng định mỗi sion (điểm tập hợp các thánh đồ) nhận được hàng trăm triệu đồng mỗi tháng từ việc buộc các thánh đồ đóng góp 1/10 thu nhập của họ. Sợ mất sự cung phụng về vật chất, là lý do khiến các chức sắc rất sợ mất chức. Họ không bao giờ dám phản kháng, hay nói ra sự thật.

Nỗi sợ mất chức này còn được lý giải từ việc người có được chức sắc phải trải qua rất nhiều thử thách khắc nghiệt để chứng tỏ lòng trung thành với “Đức Chúa Trời”, nên không thể đánh đổi.

Vì sợ, nhiều chức sắc trong “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ” sẵn sàng lừa dối, dụ dỗ hàng trăm người tham gia tổ chức để bóc lột tiền đóng góp trên mỗi đầu người; họ cũng sẵn sàng đồng ý kết hôn với người không có tình cảm miễn là được “Đấng tiên tri” gợi ý; hay thậm chí chấp nhận phá thai vì không muốn làm trái ý “Đức Chúa Trời”…

Rõ ràng u mê ban đầu đã trở thành sự nhẫn tâm, tàn ác với đồng loại; hay nói khác đi, những khiếm khuyết về nhận thức đã dần trở thành sự vô đạo đức.

Có thể thấy đây là giai đoạn cực kỳ khó khăn đối với kinh tế – xã hội Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Càng khủng hoảng, niềm tin của nhiều người đối với xã hội càng bị tổn thương, thì càng là điều kiện thuận lợi để các tà đạo như “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ” chiêu dụ thánh đồ mới, với chiêu bài “Đức Chúa Trời” sẽ giúp thánh đồ có cuộc sống tự do, thoải mái; cứu thoát thánh đồ trong ngày tận thế sắp đến để họ có thể sống đời đời với Ngài ở “Nước Thiên Đàng”.

Từ xưa đến nay, không có tôn giáo chân chính nào chức sắc càng cao thì càng vô đạo đức như những người đang nắm bộ máy tổ chức “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ”. Đã đến lúc các cơ quan truyền thông, cũng như cơ quan công an các địa phương cần thông tin rộng khắp và liên tục đến mỗi gia đình về sự thật của tổ chức này. Người dân phải biết rõ các thủ đoạn bẩn thỉu nhằm trục lợi niềm tin và vật chất của “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ” để chủ động tẩy chay, lên án, nâng cao cảnh giác, không để mình và người thân sa chân vào tổ chức này.

 Hội đồng thẩm định và phân loại quốc gia phát hiện có hình ảnh đường lưỡi bò trong phim nên không cấp phép phát hành cho phim Barbie ở Việt Nam.

Phim “Barbie” bị cấm chiếu vì có cảnh ”đường lưỡi bò”.

Ngày 3/7, ông Vi Kiến Thành – Cục trưởng Cục Điện ảnh cho biết bộ phim Barbie bị cấm chiếu tại các cụm rạp ở Việt Nam vì có cảnh “đường lưỡi bò” (tức đường chín đoạn – do Trung Quốc đưa ra, đòi chủ quyền phi pháp trên Biển Đông, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ cộng đồng quốc tế).

Quyết định này được đưa ra sau buổi duyệt phim của Hội đồng thẩm định và phân loại phim Quốc gia. Trước đó, Barbie dự kiến ra mắt ở Việt Nam vào ngày 21/7.

Barbie là tác phẩm được lấy cảm hứng từ những cô búp bê Barbie do hãng Mattel phát triển và được coi là một trong những bước ngoặt quan trọng nhất trong ngành công nghiệp búp bê. Phim được đầu tư với kinh phí lên đến 100 triệu USD.

Bộ phim theo chân cô nàng Barbie (Margot Robbie thủ vai), sống trong thế giới Barbieland thơ mộng. Một ngày, mọi thứ đảo lộn khi cô bị loại khỏi Barbieland. Cô lựa chọn lên đường đến thế giới của con người để tìm hạnh phúc mới, với sự đồng hành của Ken (Ryan Gosling).

Phim do Greta Gerwig viết kịch bản và đạo diễn, có sự góp mặt của dàn diễn viên toàn sao như Margot Robbie, Ryan Gosling, Emma Mackey và Simu Liu.

Trước Barbie, một số bộ phim nước ngoài từng bị cấm phát hành ở Việt Nam vì có hình ảnh đường lưỡi bò.

Hình ảnh vi phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam xuất hiện trên phim Barbie

Tháng 3/2022, Hội đồng thẩm định và phân loại quốc gia phát hiện có hình ảnh đường lưỡi bò trong phim nên không cấp phép phát hành Uncharted ở Việt Nam.

Năm 2021, Cục Phát thanh – Truyền hình và Thông tin điện tử (Bộ Thông tin – Truyền thông) đã có văn bản yêu cầu Netflix gỡ bỏ bộ phim Pine Gap. Bộ phim đã có hình ảnh đường lưỡi bò xuất hiện trong tập 2, và tập 3.

Tháng 8/2020, phim Madam Secretary (tựa Việt: Bà Ngoại trưởng) cũng gặp vấn đề tương tự. Sau khi Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử yêu cầu rà soát, gỡ bỏ, Netflix đã cắt cảnh có hình ảnh “đường lưỡi bò”.

Bộ phim Gửi thời thanh xuân ấm áp của chúng ta (Put Your Head On My Shoulder) chiếu vào tháng 7/2020 cũng bị cơ quan chức năng Việt Nam yêu cầu gỡ bỏ vì có các hình ảnh vi phạm chủ quyền Việt Nam.

 Chỉ sau 5 ngày, nhóm khủng bố “có tổ chức, rất manh động, liều lĩnh, man rợ và mất nhân tính” tấn công 2 trụ sở xã ở Đắk Lắk, sát hại 9 người đã bị bắt giữ toàn bộ. Phía sau cuộc truy quét này là sự mưu lược, quyết đoán của những người chỉ huy, sự dũng cảm can trường của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân.

Lực lượng chức năng triển khai truy bắt các đối tượng

Vụ tấn công 2 trụ sở xã của huyện Cư Kuin làm 9 người chết, 2 người bị thương diễn ra lúc 1h ngày 11/6. Khi đó, nhóm khủng bố bắn, sát hại công an, cán bộ xã và người dân. Khi ô tô của công an huyện tiến vào khu vực trụ sở 2 xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin, nhóm người này bất ngờ lao ra xả súng bắn trả. Chúng bắt theo 3 người làm con tin, rồi chạy vào các rẫy cà phê và ngả đồi tạo nên một thế trận nguy hiểm cho lực lượng chức năng. Bộ Tư lệnh Cảnh sát Cơ động (K02) và Công an tỉnh Đắk Lắk cùng nhiều lực lượng triển khai truy bắt nhóm tội phạm đặc biệt nguy hiểm này.

Cán bộ xã Ea Tiêu đang thu dọn hiện trường

Gần 1 giờ sau khi vụ khủng bố xảy ra, Thượng tá Diêm Công Toàn, Trung đoàn trưởng, Trung đoàn Cảnh sát Cơ động Tây Nguyên nhận được điện thoại của Thiếu tướng Lê Vinh Quy, Giám đốc Công an tỉnh Đắk Lắk về vụ tấn công. Ngay lập tức, Thượng tá Toàn điện báo cho Thiếu tướng Lê Ngọc Châu, Tư lệnh K02.

Buông điện thoại, ông Toàn lệnh 350 cán bộ chiến sĩ chuẩn bị tư trang, vũ khí hành quân về huyện Cư Kuin.

5h, 50 cán bộ chiến sĩ tinh nhuệ nhất của Đội đặc nhiệm Tiểu đoàn Cảnh sát Cơ động số 3 tại Đà Nẵng cũng nhận lệnh lập tức vào Đắk Lắk làm nhiệm vụ đặc biệt. Nhận thấy sự cấp bách, Thiếu tướng Lê Ngọc Châu xin ý kiến lãnh đạo Bộ Công an cho đội đặc nhiệm di chuyển bằng đường hàng không, thời gian tới Đắk Lắk chỉ còn 30 phút.

8h, đội quân tinh nhuệ nhất Tiểu đoàn Cảnh sát Cơ động số 3 đã có mặt ở sân bay quốc tế Đà Nẵng.

8h45, họ đổ bộ xuống sân bay Buôn Ma Thuột và nhanh chóng lên xe chuyên dụng tới thẳng hiện trường.

11h30, Tư lệnh K02 Lê Ngọc Châu cùng cấp phó là Đại tá Phạm Hữu Thinh từ Hà Nội vào tới Đắk Lắk cùng với lãnh đạo Công an tỉnh chỉ huy việc truy bắt các đối tượng phạm tội.

Một số đối tượng bị bắt giữ

Bộ câu hỏi sắc gọn bóc đỡ nhóm khủng bố

Ban chỉ huy tiền phương được thành lập ngay tại hiện trường. Lực lượng của Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát cơ động phối hợp với Công an tỉnh Đắk Lắk và các đơn vị nghiệp vụ của Bộ Công an lên kế hoạch hợp đồng tác chiến. Thiếu tướng Lê Ngọc Châu trực tiếp chỉ đạo Ban chỉ huy tiền phương, lấy lực lượng cảnh sát đặc nhiệm làm chủ công. Hệ thống liên lạc khẩn trương được lắp đặt với 3 cột phát sóng cao 60m dựng gấp ngay giữa đại ngàn và gần 400 thiết bị điện đàm, liên lạc được kết nối đến từng bộ phận, từng chiến sĩ.

Lực lượng công an dàn quân, tạo ra hàng chục mũi tấn công trọng yếu

350 CSCĐ của Trung đoàn Tây Nguyên phối hợp với công an địa phương tổ chức bao vây trên diện rộng, như một hàng rào khổng lồ ngăn chặn những kẻ khủng bố bỏ chạy, có thể tiếp tục gây hại thêm cho dân. Mặt khác, Thiếu tướng Lê Ngọc Châu cùng Phó Giám đốc Công an tỉnh Đắk Lắk Trần Bình Hưng dẫn theo đội đặc nhiệm và cảnh sát hình sự tiến sâu vào khu vực rẫy cà phê, đồi núi nơi họ nhận định có các đối tượng gây án mang theo con tin lẩn trốn.

Cảnh sát Cơ động, Cảnh sát Đặc nhiệm, Công an tỉnh Đắk Lắk, lực lượng đặc nhiệm Quân khu 5 phối hợp triển khai phương án vây bắt các đối tượng.

Trong quá trình truy bắt, bộ câu hỏi nghiệp vụ ngắn gọn được Tư lệnh Lê Ngọc Châu truyền đạt đến từng chiến sĩ. Ông Châu yêu cầu: “Khi bắt được đối tượng lập tức đấu tranh lấy lời khai ban đầu ngay tại chỗ. Tập trung vào 2 câu hỏi: “Nhóm có mấy người, chạy hướng nào? Có bao nhiêu súng, đạn và các hung khí khác?”.

Việc đấu tranh khai thác nhanh đối tượng giúp cho các chiến sĩ có cơ sở để triển khai tiếp hướng truy bắt.

Lãnh đạo K02 yêu cầu lực lượng phá án phải đặt sự an toàn tuyệt đối tính mạng của cán bộ chiến sĩ và người dân lên hàng đầu. Nơi xảy ra vụ việc có địa hình khó khăn, hiểm trở nên việc tìm kiếm, truy bắt các đối tượng phải thực hiện kỹ càng, quyết liệt bằng 1 kịch bản đánh án chi tiết.

Lực lượng truy bắt các đối tượng

“Hành vi tội các của nhóm thủ ác đã cướp đi tính mạng của nhiều đồng đội, cán bộ và nhân dân của chúng ta. Các đồng chí phải chấp hành nghiêm túc phương án truy xét, bắt giữ và nhiệm vụ đã được phân công cụ thể cho từng tổ để không một ai phải hy sinh”, Tư lệnh Lê Ngọc Châu nhấn mạnh trước khi xuất quân.

Nhiều trang thiết bị tối tân và chó nghiệp vụ đã được điều tới hiện trường hỗ trợ lực lượng bao vây nhóm khủng bố.

Ngay trong ngày 11/6, với thế chủ động, công an tập trung xét hỏi từng nghi phạm vừa bị bắt giữ để lần ra manh mối những kẻ đồng phạm còn lại. Hết ngày đầu tiên, 16 đối tượng đã được di lý về Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đắk Lắk để phục vụ điều tra, mở rộng dấu vết của nhóm tội phạm.

Chặt đứt mắc xích liên lạc khai quật chiếc điện thoại chôn sâu dưới bùn

Bằng các biện pháp nghiệp vụ đồng bộ, đặc biệt là sự góp sức của lực lượng công nghệ cao, Ban chỉ huy tiền phương đã nhanh chóng tìm ra 1 mắt xích quan trọng. Dưới vỏ bọc là nông dân ít nói, Y Cing Byă (SN 1991, trú tại xã Ea Bar, huyện Cư Kuin) là kẻ tiếp tế đồ ăn hàng ngày đồng thời là đầu mối liên lạc, chuyển tin phục vụ cho nhóm đối tượng tấn công 2 trụ sở xã.Khi công an ập vào nhà, Y Cing Byă vẫn đi làm ruộng và chỉ có vợ con hắn.

Cảnh sát Cơ động, Cảnh sát Đặc nhiệm, Công an tỉnh Đắk Lắk, lực lượng đặc nhiệm Quân khu 5 phối hợp triển khai phương án vây bắt các đối tượng.

Trực tiếp Thiếu tướng Lê Ngọc Châu đã đấu tranh, khai thác lấy lời khai. Ban đầu, Y Cing Byă tỏ ra ngoan cố, không cung cấp bất cứ thông tin gì và phủ nhận mọi sự liên quan. Bằng biện pháp tâm lý, đánh sâu vào góc khuất tình cảm gia đình, nhất là tương lai của người vợ trẻ và những đứa con thơ, đối tượng mới chịu khai ra chiếc điện thoại đang được vứt ngoài ruộng. Theo chỉ dẫn, các trinh sát đã tìm được chiếc điện thoại “bí mật” được Y Cing Byă bọc kỹ bằng ni lông rồi vùi sâu xuống dấu dưới lớp bùn dày. Từ manh mối này, các dữ liệu về nhóm tội phạm đang lẩn trốn dần được bóc tách. Tiếp tục khai thác, vận dụng triệt để các biện pháp nghiệp vụ, công an hình dung ra phía đồi Độc Lập đang có nhóm tội phạm chủ chốt cố thủ.

Lập tiểu ban chỉ huy ngay dưới đồi độc lập

Chiều ngày 13/6, lãnh đạo K02 yêu cầu thiết lập ngay 1 tiểu ban chỉ huy tại vị trí ngã ba, dưới chân đồi Độc Lập với nhiều lực lượng tham gia họp bàn cho cuộc vây bắt lớn. Vòng vây của công an đang siết lại ở phạm vi hẹp dần, quả đồi bị phong toả, lực lượng công an ở thế chủ động ngăn chặn mọi cuộc tẩu thoát.Tư lệnh K02 trao đổi với cấp uỷ chính quyền địa phương, trưng dụng 1 cán bộ thông thạo nghiệp vụ, địa bàn tham gia tiểu ban.

Từ bản vẽ phác thảo địa hình của cán bộ địa chính, Tư lệnh Lê Ngọc Châu nhận thấy ưu điểm của khu đồi là có 3 mặt riêng biệt, phía áp con suối nhỏ, phía áp ruộng và mặt còn lại dựng đứng, chỉ có 1 con đường độc đạo vào, ra. Từ đó, ông triển khai các mũi tấn công cho cán bộ, chiến sỹ với quyết tâm an toàn và hiệu quả. Nhận lệnh, các lực lượng lập tức khoanh vùng phía con suối nhỏ. Với mục đích là nếu đối tượng dịch chuyển thì công an dễ nhận biết đối tượng có mang vũ khí hay không? Nhóm có bao nhiêu người? Tâm lý, tinh thần của chúng ra sao? Từ đó chuyển thông tin về Tiểu ban chỉ huy để lên kịch bản “nhặt” từng đối tượng và đảm bảo an toàn cho các chiến sĩ tham gia đánh án. Chỉ lực lượng cảnh sát đặc nhiệm trang bị áo giáp, vũ khí tối tân tiến sâu vào sào huyệt của chúng, những người còn lại bao vây vòng ngoài, ở cự ly hợp lý để sẵn sàng yểm trợ.

“Trên đường tiến sâu vào đồi Độc Lập, đội đặc nhiệm hết sức lưu ý đảm bảo an toàn. Kẻ phạm tội đang ở thế phòng thủ chủ động và rất manh động. Tầm sát thương của các vũ khí chúng đang có là khoảng 200m, cự ly đó khả năng xuyên thấu rất cao. Do đó, các đồng chí phải mở rộng tầm quan sát, giữ khoảng cách an toàn cho bản thân. Liên tục rà soát các bẫy có thể chúng đã tạo ra như: Chông, lựu đạn cài lại…Nếu phát hiện thấy dấu hiệu khác thường phải dừng lại xử lý xong mới tiếp tục tiến quân. Theo tư liệu điều tra, nhóm đối tượng cố thủ đã 3 ngày trên đồi, đang có nhiều súng và lựu đạn”, lãnh đạo K02 căn dặn.

Cán bộ xã Ea Tiêu đang thu dọn hiện trường

Tổng tấn công vào xào huyệt

Đêm 13/6, hàng trăm chiến sĩ dàn hàng ngang bao vây quả đồi. Lực lượng đã dùng đèn pin liên tục quét ánh sáng nhằm kiểm soát không cho các đối tượng lợi dụng đêm tối rời vị trí đang ẩn nấp.

Đây là tình tiết quan trọng mà sau này khi bị bắt các đối tượng khai là khi biết bị bao vây đã bàn nhau kế hoạch bỏ chạy. Tuy nhiên, khi xuống bìa rừng thì nhìn thấy ánh đèn của cơ quan chức năng buộc chúng phải quay lại.

Chỉ huy lực lượng đã cho phép chiến sĩ được phép nổ súng trong tình huống cần thiết, nhưng phải giữ được tính mạng đối tượng nhằm phục vụ công tác điều tra về sau.

Khác với kế hoạch của các ngày trước đó, đối tượng bị khống chế, bắt giữ trên đồi Độc Lập đều được đưa về tiểu ban chỉ huy ngay chân đồi để trực tiếp đấu tranh, phân loại, phục vụ việc truy bắt tiếp, đảm bảo kịp thời nhanh chóng.

1 trong những đối tượng bị bắt giữ

Bộ câu hỏi nghiệp vụ lại được sử dụng. Qua đó đã xác minh ngay 24 đối tượng bị bắt giữ đều là thành phần trực tiếp tham gia vụ khủng bố với vai trò chủ chốt. Khi vòng vây của công an siết chặt, không còn lối thoát, 1 đối tượng trong nhóm cầm đầu đã tự sát bằng súng. Các đối tượng sừng sỏ bị bắt tạo ra bước ngoặt trọng cho việc quét sạch các phần tử liên quan, đồng phạm trong những ngày sau.

Lòng dân cũng là chiến thuật

Cùng thời điểm, Bộ Công an phát đi thông báo đề nghị người dân huyện Cư Kuin và các địa bàn lân cận bình tĩnh, không hoang mang, thực hiện theo yêu cầu của chính quyền cơ sở, các lực lượng chức năng. Chính quyền tỉnh ĐắkLắk yêu cầu: Các xã của huyện Cư Kuin được chỉ đạo trực 100% quân số, người dân tạm thời không ra khỏi nhà. Nhà chức trách cũng phát đi lời kêu gọi quần chúng nhân dân nếu phát hiện đối tượng lạ mặt, tình nghi thì báo ngay cho chính quyền địa phương và lực lượng công an gần nhất. Các gia đình có con, em, người thân vi phạm tích cực vận động, động viên họ ra đầu thú, thành khẩn khai báo để hưởng chính sách khoan hồng.

Người đồng bào giúp đỡ lực lượng chức năng bắt giữ những kẻ bỏ trốn

Xuyên suốt quá trình 5 ngày vây bắt nhóm khủng bố, những người đàn ông Tây Nguyên đã mang theo xe máy, công cụ lao động hàng ngày bủa ra các ngả đường, theo chân cảnh sát để hỗ trợ truy tìm, bắt giữ các đối tượng. Những người phụ nữ ở lại buôn làng, người lấy rau, vo gạo nấu những suất cơm tình nghĩa tiếp tế cho các chiến sĩ phá án.

“Họ báo tin cho chúng tôi những dấu vết của nhóm tội phạm. Họ dùng xe máy chở anh em chiến sĩ để tới nhanh hơn nơi có kẻ gây án đang ẩn nấp. Tình cảm của bà con, buôn làng khiến chúng tôi như được tiếp thêm sức mạnh, khiến kẻ khủng bố nhìn thấy cũng chùn chân”, Thượng tá Diêm Công Toàn, Trung đoàn trưởng Trung đoàn CSCĐ Tây Nguyên kể lại.

Ngoài việc truy đuổi các đối tượng bỏ trốn thì những chiếc “camera chạy bằng cơm” ở Đắk Lắk cũng đóng luôn vai trò hậu cần, phục vụ hết công suất, chăm lo những bữa ăn cho các chiến sĩ. Gần 500 suất ăn đã được phục vụ bởi bà con nơi đây từ khi sự việc xảy ra

Từ thắng lợi này, ngày 26/6, Cơ quan ANĐT Công an tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định khởi tố 75 bị can về tội “Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”. Ngoài ra, cơ quan điều tra cũng khởi tố 9 bị can khác về tội ” “không tố giác tội phạm”, ” che giấu tội phạm” và “Tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép”.

 Fulro, dưới bàn tay giật dây của các thế lực thù địch, trở thành một tổ chức phản động cực kỳ nguy hiểm. Cái tên của tổ chức ấy gắn với sự đen tối, là bóng ma hãi hùng ám ảnh vùng đất Tây Nguyên. Mặc dù hiện nay, tổ chức Fulro đã bị xóa sổ, nhưng tàn dư của nó vẫn chưa thực sự chấm dứt, vẫn tồn tại trong “vấn đề Tây Nguyên” thông qua hình thức khác. Với loạt bài hồ sơ - tư liệu dài kỳ, chúng tôi xin góp phần tái hiện lại phần nào hoạt động và bản chất của tổ chức tội ác này. Đồng thời xin được tôn vinh những chiến công của quân và dân Tây Nguyên trong sự nghiệp đấu tranh đầy cam go và mất mát, hy sinh nhằm chống lại những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ sự bình yên cho mảnh đất hùng vĩ trong lòng Tổ quốc…


TỪ BAJARAKA ĐẾN FULRO
 
Theo dòng lịch sử, tiền thân của tổ chức Fulro đã có từ thời đất nước ta còn chưa sạch bóng ngoại xâm. Nhiều tài liệu trong và ngoài nước thể hiện, với chủ trương đấu tranh bất bạo động yêu cầu chấm dứt mọi chính sách phân biệt đối xử đối với các sắc tộc thiểu số Việt Nam của nhà cầm quyền Ngô Đình Diệm, ngày 1-5-1958, một số trí thức người Tây Nguyên (từ dùng của thời kỳ đó là: người Thượng), do ông Y Bham Ênuôl người Ê Đê chủ xướng, đã thành lập một tổ chức có tên gọi BaJaRaKa. Mục tiêu kết nối các sắc tộc được cho là mạnh nhất và sinh sống lâu đời ở Tây Nguyên, BaJaRaKa là chữ viết tắt tên của bốn dân tộc chủ yếu: Bahnar (người Ba Na), Djarai (người Gia Rai), Rhadé (người Ê Đê) và Kaho (người Cơ Ho). 


Cố Đại tá Vũ Linh

Chỉ sau hai tháng kể từ ngày thành lập, với chữ ký của ông Y Bham Ênuôl, ngày 25-7-1958, BaJaRaKa gửi thư đến Tòa đại sứ Pháp, Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc tố cáo những hành vi phân biệt sắc tộc của nhà cầm quyền và yêu cầu các cường quốc can thiệp để người Thượng được độc lập trong khối Liên hiệp Pháp hoặc dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ. Tiếp đó, các tháng 8 và 9 của năm này, BaJaRaKa tổ chức nhiều cuộc biểu tình thỉnh nguyện tại Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Pleiku nhưng các cuộc biểu tình này đều bị trấn áp. Tất cả những người được cho là lãnh đạo của phong trào này đều bị bắt, trong đó có ông Y Bham Ênuôl. 
 
Trước đó, từ năm 1956, thực thi mục tiêu chống cộng ráo riết, triệt để của Hoa Kỳ, các cố vấn quân sự Mỹ vào tận các buôn làng, đào tạo và trang bị vũ khí cho thanh niên Thượng. Họ tổ chức thành các đội Dân sự Chiến đấu Thượng (Civilian Indigenous Defense Group, CIDG) và Lực lượng Đặc biệt. Cuộc đảo chính của phe quân sự dưới sự hỗ trợ của CIA đã lật đổ chính thể họ Ngô vào năm 1963, với sự kiện này, tất cả những người lãnh đạo của BaJaRaKa được trả tự do. Sau đó, nhằm giảm bớt sức ép chính trị, đồng thời thực hiện mưu đồ “dùng người Thượng cai trị người Thượng”, nhà cầm quyền Sài Gòn đã bổ nhiệm một loạt các thủ lĩnh của phong trào này vào các chức vụ chủ chốt ở các tỉnh Tây Nguyên. Trong đó, ông Y Bhăm Ênuôl trở thành phó tỉnh trưởng tỉnh Đắc Lắc, ông Paul Nưr là phó tỉnh trưởng tỉnh Kon Tum. Tháng 3-1964, một lần nữa được sự ủng hộ của người Mỹ, những người lãnh đạo BaJaRaKa kết hợp với các sắc tộc Thượng khác và người Chăm tại duyên hải miền Trung thành lập “Mặt trận Giải phóng Cao Nguyên” (FLHP). Thế nhưng, ngay từ khi thành lập, “mặt trận” này đã phân chia thành hai phe đối nghịch nhau: phe ôn hòa do Y Bham Ênuôl đại diện và phe chủ trương bạo động do Y Dhơn Adrong cầm đầu. 
 
Trong hai tháng 3 đến 5-1964, phe bạo động trong FLHP bị quân đội Sài Gòn mở các chiến dịch truy quét gắt gao phải chạy qua Campuchia lập căn cứ tại tỉnh Mondolkiri, cách biên giới nước ta 15 km. Tại căn cứ này, họ tiếp tục tuyển mộ thanh niên Thượng tham gia FLHP chống chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ngày 19-9-1964, các toán biệt kích thuộc Lực lượng Đặc biệt và các đội Dân sự Chiến đấu Thượng nổi dậy đánh chiếm một số đồn ở Quảng Đức (nay là Đắc Nông) và Đắc Lắc giết chết 35 binh sỹ VNCH, bắt sống quận trưởng Đức Lập; đánh chiếm đài phát thanh Buôn Ma Thuột và kêu gọi người dân tham gia nổi dậy thành lập quốc gia độc lập. Ngày 20-9-1964, chuẩn tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Vùng II Chiến thuật đã lệnh cho Sư đoàn 23 bộ binh cùng một số tiểu đoàn biệt động quân và thiết giáp vây quanh đài phát thanh, và những đồn bị chiếm đóng. Thế nhưng, ngay thời điểm đó, Vĩnh Lộc nhận được khuyến cáo của Beachner, tham tán thứ ba tòa đại sứ Mỹ trên Cao Nguyên là dừng ngay lệnh nổ súng và tiến hành thương thuyết. Ngay sau đó, một cuộc thương lượng có sự hiện diện của quan chức tòa đại sứ Mỹ, đi đến những thỏa thuận sau: Y Bham Ênuôl được cử làm chủ tịch chính thức phong trào FLHP; tuy nhiên ngay trong chiều 20-9-1964, ông ta đã trốn sang Campuchia. Thỏa thuận thứ hai là những người Thượng chỉ huy đợt tập kích này không bị truy tố và không bị truy đuổi khi rút quân qua Campuchia… 
 
Như một cơ hội đã chín muồi cho một âm mưu lâu dài, cuộc thương lượng dưới sự “chủ trì” của người Mỹ chính là “bà đỡ” đảm bảo cho sự ra đời của một thế lực chính trị mới theo đúng ý đồ và sự sắp đặt của họ. Ngày 20-9-1964, tại Campuchia, “Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức” được thành lập (Front Uni de Lutte des Races Opprimées, đọc theo tiếng Pháp, viết tắt là FULRO (xin viết là Fulro). Mặt trận này bao gồm các thành phần: Mặt trận Giải phóng Champa (Front de Libération du Champa, FLC) tức Fulro Chăm, do Les Kosem (một tướng nhảy dù người Khmer gốc Chăm) lãnh đạo. Mặt trận Giải phóng xứ Campuchia Krom miền Tây Nam Việt Nam (Front de Libération du Kampuchea Krom, FLKK) tức Fulro Khmer, do Chau Dera làm đại diện và Mặt trận Giải phóng Cao Nguyên (Front de Libération des Hauts Plateaux, FLHP) tức Fulro Thượng, do Y Bham Ênuôl cầm đầu. Fulro đã tự “sản xuất” một lá cờ (hiệu kỳ) hình chữ nhật gồm ba sọc: màu xanh biển (tượng trưng cho biển cả), màu đỏ (biểu tượng của đấu tranh) và màu xanh lá cây (màu của rừng núi). Trên dòng sọc đỏ có ba ngôi sao trắng tượng trưng cho ba mặt trận của Fulro: Champa, Thượng và Campuchia Krom. Fulro có ba cơ quan lãnh đạo: Hội đồng Tối cao do Chau Dera làm chủ tịch, Hội đồng Bảo trợ do Les Kossem làm chủ tịch, và Ủy ban Chấp hành Trung ương do Y Bham làm chủ tịch. Trong thực tế, vào thời điểm này, Y Bham Ênuôl không có thực quyền, người nắm hết mọi quyền hành là Les Kosem. Trong khi đó, nhóm Fulro Thượng do Y Bham Ênuôl làm chủ tịch vẫn bị phân hóa thành hai như còn thời BaJaRaKa: nhóm dân sự ôn hòa do Y Bham Ênuôl lãnh đạo tiếp tục chủ trương vận động Hoa Kỳ làm áp lực với chính phủ Việt Nam Cộng hòa để Fulro Thượng được về Việt Nam hoạt động một cách chính thức; ngược lại, nhóm vũ trang do Y Dhơn Adrong cầm đầu vẫn kiên quyết chủ trương dùng bạo lực để thành lập một quốc gia độc lập của người Thượng trên cao nguyên… 


Vũ khí của Fulro

Trong thời kỳ từ 1964 đến 1969 và ngay cả những năm sau ngày nước nhà thống nhất, “câu chuyện Fulro” rất dài dòng với nhiều biến cố và sự kiện xảy ra bởi những mâu thuẫn chồng chéo giữa Fulro với chế độ Việt Nam Cộng Hòa và các thế lực chính trị khác; giữa các nhân vật, các phái khác nhau chính trong tổ chức này. Cũng trong những năm này, Fulro liên tục thay đổi bộ máy cầm đầu, trong đó, có không ít kẻ bị đồng bọn ám sát trong quá trình thanh trừng, tranh giành quyền lực. Nói ra rất tốn giấy mực và thời gian của bạn đọc. Xin điểm thêm về sự kiện hiệp ước cuối cùng được ký kết vào ngày 1-2-1969 giữa ông Paul Nưr - đại diện Việt Nam Cộng Hòa và Y Dhê Adrong, đại diện Fulro dưới sự chủ tọa của Tổng thống Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu. Một số người trong các sắc tộc Thượng và Chăm không hài lòng với những điều khoản ký kết và vì vậy, Fulro tiếp tục đấu tranh, có lúc lộ diện, có lúc ẩn chìm. 
 
* * *
 
Năm 1975, chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, Fulro - dưới sự giật dây, hỗ trợ của các ông chủ từ xa, tiếp tục tổ chức quấy phá chống lại nước ta. Từ đầu năm 1975 đến năm 1977, Fulro tiếp tục tuyên truyền, kích động gây hận thù dân tộc và tiến hành tập kích vũ trang. Một tên thủ lĩnh khác là Y Djao Niê tổ chức lại Fulro đồng thời kêu gọi các nước Anh, Pháp, Mỹ và LHQ viện trợ. Từ năm 1982-1985, Fulro được các thế lực quốc tế và tàn quân Pôn Pốt tiếp sức, củng cố căn cứ ở Mondolkiri và đưa được các toán đặc biệt về vùng ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia lập “mật cứ” đón gián điệp, biệt kích, lực lượng lưu vong trở về như Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh và các toán phản động khác. Trong thời gian từ năm 1979-1985, hoạt động Fulro đã phá hoại cuộc sống bình yên của các thôn ấp, buôn làng, giết hại nhiều cán bộ, công an, dân quân và quần chúng tốt. Nhưng lực lượng công an, quân đội ta được nhân dân các đồng bào dân tộc ủng hộ đã đẩy mạnh công tác nghiệp vụ, đấu tranh thắng lợi trong hàng chục chuyên án, làm tan rã nhiều nhóm Fulro và đưa họ trở về với cộng đồng. 


Máy đánh chữ của Fulro do lực lượng ta thu được

Ở Tây Nguyên, cuối thập niên 80, không còn mấy ai nhắc đến Fulro nữa. Cho đến năm 1992, vấn đề Fulro lại xuất hiện ở khu vực biên giới Thái Lan - Campuchia. Theo phóng viên người Mỹ Nate Tahyer trên tờ New Straits Times: “Lực lượng mang tên là Fulro-Dega là một tổ chức vũ trang đặt dưới quyền lãnh đạo của đại tá Y Peng Ayun, vẫn tiếp tục liên hiệp với Khmer Ðỏ để chống lại Hà Nội. Sau 17 năm chống cộng, lực lượng của đại tá Y Peng Ayun chỉ còn lại khoảng 2.000 người. Từ biên giới Thái -Miên, đại tá Y Peng Ayun tuyên bố rằng, lực lượng Fulro-Dega sẽ tiếp tục đấu tranh cho tới khi nào Cộng Sản trao trả lại tự do cho dân tộc Tây Nguyên.” Năm 1994, khi LHQ đưa lực lượng quốc tế UNTAC vào thực hiện giải pháp chính trị ở Campuchia, Fulro không còn chỗ dựa. Với sự chấp thuận của Mỹ, tháng 12-1992, toàn bộ số Fulro còn lại gồm 407 tên do Y Peng Ayun cầm đầu đã ra hàng UNTAC, tuyên bố chấm dứt hoạt động chính trị và vũ trang, nộp vũ khí và được người Mỹ đưa đi định cư ở bang Colorado…
 
Hồ sơ về Fulro là hồ sơ về một tổ chức phản động, một tổ chức tội ác. Tổ chức đó đã bị xóa sổ trước tinh thần đấu tranh không mệt mỏi của quân và dân ta trong công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ và cuộc sống bình yên của nhân dân. Thế nhưng, tàn dư của nó vẫn còn khi vẫn còn đó những thế lực thù địch, những âm mưu đen tối chống phá đất nước và nhân dân ta. Lật lại hồ sơ Fulro, chúng tôi muốn gửi đến bạn đọc những thông tin dù đã từng xảy ra trong quá khứ, nhưng bài học cảnh giác thì luôn tươi mới…

Ngay sau Hội nghị Sơ kết 1 năm hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngày 24/6 vừa qua Thoibao.de đăng bài: “Dù mạnh tay, ông Tổng vẫn thất bại”. Chúng đưa thông tin, bình luận nhằm hạ thấp vai trò, trách nhiệm của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh:“Chỉ trong 1 năm qua, đã có đến 2.196 văn bản được các Ban chỉ đạo tham mưu, ban hành, chỉ đạo ban hành để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác PCTNTC ở địa phương. Điều này chứng tỏ các địa phương chống tham nhũng theo chỉ đạo từ bên trên, chứ tự họ thì không làm được. Đây là đặc trưng của loại nhà nước độc tài. Chuyện gì cũng cần có chỉ đạo mới làm, chứ cấp dưới không dám tự quyết”. Tại sao từ số liệu trong Báo cáo sơ kết “2.196  văn bản được các Ban chỉ đạo tham mưu, ban hành …” lại chứng tỏ rằng: “các địa phương chống tham nhũng theo chỉ đạo từ bên trên, chứ tự họ thì không làm được… Chuyện gì cũng cần có chỉ đạo mới làm, chứ cấp dưới không dám tự quyết”. Cái chứng tỏ này của Thu Phương là xằng bậy, vô căn cứ. Phải hiểu rằng, 2.196 văn bản này được các Ban Chỉ đạo của các tỉnh, thành phố trong cả nước tham mưu, ban hành để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác PCTNTC ở các địa phương, chứ không phải 2.196 văn bản này là của Trung ương ban hành để địa phương thực hiện. Và điều này chứng tỏ rằng các tỉnh, thành phố đã tích cực, chủ động trong việc tham mưu ban hành văn bản chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, sát hợp với thực tế từng địa phương. Chính vì vậy, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở các địa phương, hơn 1 năm qua đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng: đã xử lý, kiến nghị xử lý kỷ luật nhiều tổ chức đảng, đảng viên có hành vi tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; chuyển 286 vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật; đưa 444 vụ án, 156 vụ việc tham nhũng, tiêu cực phức tạp, dư luận xã hội quan tâm vào diện theo dõi chỉ đạo; khởi tố mới 530 vụ án/1858 bị can phạm tội về tham nhũng; số cán bộ, đảng viên bị khởi tố do hành vi tham nhũng, tiêu cực là 1132 bị can. Hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh đã khắc phục dần tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” như trước đây.

Vẫn với mục đích bôi nhọ, hạ uy tín của Đảng, Nhà nước Việt Nam, phủ định vị trí cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, nên chúng tung ra những luận điệu:“ Đảng Cộng sản không hề trong sạch chút nào, dù chỉ là trong việc nhỏ nhất”; “ Trong giới chức Cộng sản thì nhà nhà tham nhũng, và người người tham nhũng. Không có khái niệm “thanh liêm” trong bộ máy chính quyền Cộng sản”. Từ đó, chúng muốn phá vỡ niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và chế độ; gây hoài nghi trong nhân dân về đường lối, chủ trương và quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Các bồi bút của các tổ chức phản động luôn nhai đi, nhai lại luận điệu xuyên tạc mục tiêu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng chỉ là “cái cớ để triệt hạ phe cánh”, là “đấu đá nội bộ để tranh giành quyền lực”, “vì lợi ích phe nhóm” và  bôi nhọ, vu cáo lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nhất là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng . Luận điệu này, trong bài viết thể hiện ở đoạn: “Thời kỳ Ông Nguyễn Tấn Dũng nắm chức Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thì ông Dũng đã biến nó thành công cụ để bao che cho nhóm lợi ích mà chính ông cầm đầu. Sau khi giành được chức này, ông Trọng đã đốn rất nhiều củi, quẳng vào lò. Tuy nhiên, ông Trọng chỉ đốn củi “nhà hàng xóm”, còn củi nhà ông, thì ông vẫn giữ. Như vậy, ông Nguyễn Tấn Dũng đã từng giữ chức Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để bao che cho phe ông, thì sau đó ông Trọng không những bao che cho phe ông, mà ông còn dùng nó để đánh vào phe đối thủ”…

Bài báo đưa ra nhận định rất phản động: “Công tác phòng, chống tham nhũng của ông Trọng cũng chỉ mang lại tên tuổi cho chính ông, chứ nhân dân chẳng được gì”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với tư cách là người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, đã nhìn ra mối nguy cơ của đại dịch tham nhũng, bằng tất cả dũng khí và mưu lược, Ông đã phất lên ngọn cờ quyết tâm tiêu diệt bằng được sự tham nhũng, sự lộng quyền, nhằm làm trong sạch Đảng và bộ máy Nhà nước, chứ đâu phải nhằm “mang lại tên tuổi cho mình”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã sống thật, làm thật và làm tốt phận sự của một công bộc. Ông là người luôn lấy dân làm thước đo, lấy dân làm chuẩn mực, lấy lợi ích và quyền lực của dân làm mục tiêu phấn đấu của hành động. Tên tuổi của ông tự đó mà khắc sâu trong lòng người dân, được dân quý,  dân yêu và dân tin tưởng. Còn tại sao “nhân dân chẳng được gì” khi Đảng, Nhà nước thực hiện cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực?

Thu Phương cố tình nhắm mắt để không nhìn thấy những cái được của người dân khi cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có nguồn gốc từ yêu cầu, nguyện vọng của người dân và đây là việc có lợi cho dân thì Đảng phải hết sức làm. Vậy, trước hết nhân dân được đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của mình. Ngăn chặn và đẩy lùi được tham nhũng, tiêu cực thì người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc không bị phiền hà, nhũng nhiễu bởi tình trạng tham nhũng vặt: vòi vĩnh, “gợi ý”, “lót tay”; giảm được nạn “chạy chức”, “chạy quyền”, cục bộ, “thân quen” thì công tác bố trí, sử dụng cán bộ mới công tâm, khách quan, người có phẩm chất, năng lực được thăng tiến; giảm được tệ ăn cắp, ăn bớt, ăn chặn của công; lấy tiền tài, của cải, vật chất do người khác biếu xén, cho tặng, hối lộ thì giảm được sự bức xúc, tức giận của người dân và xã hội trong lành hơn. Qua xử lý các vụ tham nhũng, người dân được trả lại tài sản của mình do bọn tham nhũng đánh cắp (chỉ tính từ đầu năm đến tháng 5/2023 đã thu hồi được khoảng 59.000 tỷ). Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn góp phần quan trọng trong giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Việc loại ra khỏi bộ máy những “con sâu mọt” không những để Đảng ta thực sự là đạo đức, là văn minh, để Nhà nước ta thực sự là của dân, do dân và vì dân mà còn đem lại niềm tin cho nhân dân vào công cuộc đổi mới đất nước…

Bài báo đưa ra đánh giá về kết quả của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mà không ai chấp nhận được:“Cho đến nay, có thể nói, ông Trọng đã chống tham nhũng có phần thành công, tuy nhiên, đối với việc phòng tham nhũng thì ông Trọng đã hoàn toàn thất bại”. Đánh giá như vậy là vô căn cứ, hoàn toàn sai với thực tế khách quan và chỉ nhằm phủ định sạch trơn kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 – Khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự  suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, của Đảng trong suốt thời gian qua. Đánh giá kết quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng tiêu cực, phải đánh giá trong sự kết hợp chặt chẽ giữa “phòng” và “chống”, trong đó “phòng” là chính, là cơ bản, là chiến lược, lâu dài; “chống” là quan trọng, cấp bách. Muốn “phòng” phải “chống” và “chống” nhằm mục đích “phòng” được tốt hơn. Phòng ngừa tốt sẽ giảm được tham nhũng, tiêu cực. Chống – xử lý tham nhũng, tiêu cực mục đích là để “trị bệnh cứu người”, kỷ luật một vài người để cứu muôn người, truy tố một vụ để cảnh tỉnh cả một vùng, một lĩnh vực; từ đó để cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, giáo dục cán bộ, đảng viên, nhất là người có chức có quyền. Đánh giá riêng từng mặt “phòng” và “chống” chỉ là tương đối và không đầy đủ, không toàn diện. Thu Phương mới chỉ nhìn được và thừa nhận“có phần thành công” trong việc “chống”. Còn phòng ngừa mà “trọng tâm là xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên”, là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài thì cho rằng “ông Trọng đã hoàn toàn thất bại”. Nói về kết quả của của công tác phòng, ngừa tham nhũng, tiêu cực, tức là nói đến kết quả thực hiện Nghị quyết TW 4 khóa XII (việc này đã được Trung ương đánh giá đầy đủ tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII). Tôi chỉ đề cập đến một số vấn đề làm rõ hơn về kết quả phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực để phản đối đánh giá “đối với việc phòng tham nhũng thì ông Trọng đã hoàn toàn thất bại” của tác giả bài viết. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã đề ra các nhóm giải pháp, trong đó tập trung vào việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là căn nguyên, là cái gốc dẫn đến tham nhũng, cần phải phòng ngừa. Thực hiện Nghị quyết, mỗi cán bộ, đảng viên đã theo 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”để tự liên hệ “tự soi, tự sửa, tự gột rửa” những hạn chế khuyết điểm, yếu kém của mình. Từ đó, xây dựng kế hoạch sửa chữa, khắc phục, góp phần xây dựng cấp ủy, cơ quan, đơn vị đoàn kết, vững mạnh. Các cấp ủy Đảng, chính quyền đã tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát phát hiện, ngăn chặn từ sớm, từ xa không để các vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Đảng đã tập trung chỉ đạo vào các khâu còn yếu, khâu khó, đột phá vào những vấn đề mới. Chẳng hạn như: Chú trọng công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế trên các lĩnh vực để bảo đảm “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng, tiêu cực. Trước hết là cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể” tham nhũng, tiêu cực; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám” tham nhũng, tiêu cực; xây dựng văn hóa liêm chính để “không muốn” tham nhũng, tiêu cực; và một cơ chế bảo đảm để “không cần” tham nhũng, tiêu cực. Trung ương đã ban hành nhiều chủ trương, quy định mới, mạnh mẽ, quyết liệt và được triển khai thực hiện nghiêm túc, đi vào cuộc sống; khắc phục được một bước những sơ hở, bất cập trước đây làm phát sinh tiêu cực, tham nhũng. Nhất là các quy định về phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; quy định mới về những điều đảng viên không được làm; về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; về kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; về kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, đảng viên; về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu…

Đảng ta đã công khai thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, công khai nói rõ những mặt yếu kém, tiêu cực trong Đảng. Trong đó, tham nhũng “vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ” (Đại hội XIII). Vì vậy, công tác phòng, chống tham nhũng tiêu cực là nhiệm vụ rất quan trọng, vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một cách kiên quyết, kiên trì, liên tục, bền bỉ, “không nghỉ”, “không ngừng” ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Phát hiện và xử lý tham nhũng một cách bài bản, đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả, thực hiện đúng quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào” để làm cho Đảng ta và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng./.

Việt Hòa - Nguồn: blog ivanlevanlan

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.