Lợi dụng sự kiện dự kiến ngày 7 tháng 9 năm 2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử sơ thẩm 29 bị cáo trong vụ đổ xăng làm 3 chiến sĩ công an hi sinh xẩy ra tại xã Đồng Tâm, các thế lực thù địch lại dùng nhiều chiêu trò sử dụng mạng xã hội để đăng nhiều bài viết, video, clip bóp méo sự thật nhằm chống phá cách mạng.


Ngày 29 tháng 9 năm 2020, trên trang Facebook của mình, Phạm Minh Vũ đăng bài viết “Họ bị tội chi?” và cho rằng sự việc xẩy ra tại xã Đồng Tâm hôm 09 tháng 01 năm 2020, cơ quan thực thi pháp luật đã “sát hại cụ Kình và bắt giữ con cháu cũng như dân làng ở đây”, và chính quyền đã “thủ tiêu 3 đồng chí của mình để dư luận trông có vẻ hợp lý vụ tấn công vào Đồng Tâm là chính đáng”. Đây là luận điệu đốn mạt nhằm tuyên truyền sai sự thật, làm mất lòng tin của nhân dân với Đảng, cổ súy cho hành vi coi thường pháp luật, gây mất an ninh chính trị, đi ngược lại nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Đừng làm trò để biện hộ cho những tên sát nhân trong vụ án Đồng Tâm

Luận điệu “sát hại cụ Kình và bắt giữ con cháu cũng như dân làng ở đây” đã chứng tỏ Phạm Minh Vũ quá đốn mạt, vô công rồi nghề,bóp méo sự thật, đổi trắng thay đen chuyên khóc thuê cho các thế lực thù địch. Theo Cáo trạng số 241/CT-VKS-P2 của viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội , mặc dù “...biết rõ đất cánh đồng Sênh ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội là đất Quốc phòng đã được Thanh tra TP. Hà Nội và Thanh tra Chính phủ kết luận”. Tuy nhiên, “...đối tượng Lê Đình Kình đã cùng Lê Đình Công, Nguyễn Viết Hiều, Nguyễn Văn Tuyển và một số đối tượng tại địa bàn xã Đồng Tâm thành lập “Tổ Đồng Thuận”, mục đích chiếm lại đất đồng Sênh chia nhau...Kể từ năm 2017 đến đầu năm 2020, đối tượng Lê Đình Kình đã chỉ đạo “Tổ Đồng thuận” và nhiều đối tượng khác gây ra hàng loạt vụ gây rối trật tự công cộng, bắt giữ người trái pháp luật, cố ý làm hư hỏng tài sản… đối tượng Lê Đình Kình cùng đồng phạm đã góp tiền mua 10 quả lựu đạn, mua xăng làm 85 chai bom xăng, mua khoảng 10 tuýp sắt có gắn dao bầu và liềm, nhặt gạch đá, làm bùi nhùi, mua pháo… nhằm tấn công lực lượng chức năng...tuyên bố nếu lực lượng công an đưa quân về đồng tâm sẽ tiêu diệt từ 300 đến 500 người...Rạng sáng ngày 09/1/2020, lực lượng công an đến chốt cổng làng thôn Hoành (cách nhà đối tượng Kình khoảng 50m) để bảo vệ mục tiêu theo kế hoạch đề ra thì Bùi Văn Niên và Lê Đình Quân đánh kẻng báo động; nhanh chóng, một số đối tượng khác bắn pháo về phía lực lượng chức năng. Những tên khác trèo lên mái nhà đối tượng Kình, mái nhà Chức dùng gạch đá, bom xăng, dao bầu tấn công lực lượng công an. Tổ công tác đã nhiều lần dùng loa kêu gọi nhưng các đối tượng không dừng lại mà càng chống đối quyết liệt. Chức và Công ném lựu đạn về phía Tổ công tác nhưng không nổ. Theo sự phân công, lực lượng công an gồm các anh Nguyễn Huy Thịnh, Phạm Công Huy, Dương Đức Hoàng Quân và nhiều người khác triển khai kế hoạch đột nhập, bắt giữ các đối tượng về hành vi phạm tội quả tang...Chức dùng tuýp sắt gắn dao bầu chọc từ trên xuống, các đối tượng khác ném bom xăng, gạch đá khiến 3 chiến sĩ công an rơi xuống hố ở khoảng giữa nhà đối tượng Hợi và Kình. Nhóm tội phạm ở trên đã đổ xăng xuống hố các chiến sĩ công an rơi xuống và châm lửa đốt, hậu quả làm 3 chiến sĩ tử vong. Kết quả điều tra xác định, Lê Đình Kình cùng với Lê Đình Công, Bùi Viết Hiểu, Nguyễn Văn Tuyển và Nguyễn Quốc Tiến giữ vai trò chủ mưu cầm đầu, vừa chỉ đạo các bị can khác, vừa trực tiếp thực hiện hành vi tội phạm giết người”. Vì vậy cơ quan chức năng bắt giữ Lê Đình Công, Nguyễn Viết Hiểu, Nguyễn Văn Tuyển, Lê Đình Chức, Lê Đình Doanh, Nguyễn Quốc Tiến, Nguyễn Văn Quân, Lê Đình Uy, Lê Đình Quang, Bùi Thị Nối, Bùi Thị Đục, Nguyễn Thị Bét, Nguyễn Thị Lụa, Trần Thị La, Bùi Văn Tiến, Nguyễn Văn Duệ, Lê Đình Quân, Bùi Văn Niên, Bùi Văn Tuấn, Trình Văn Hải, Nguyễn Xuân Điều, Mai Thị Phần, Đào Thị Kim, Lê Thị Loan và Nguyễn Văn Trung bị truy tố về tội Giết người theo quy định tại Điều 123, khoản 1, điểm a, d, n, o – BLHS năm 2015. Lê Đình Hiển, Bùi Viết Tiến, Nguyễn Thị Dung và Trần Thị Phượng bị VKS truy tố về tội Chống người thi hành công vụ, theo quy định tại Điều 330, khoản 2, điểm a – BLHS năm 2015. Việc bắt giữ các đối tượng trên là hoàn toàn đúng pháp luật, trả lại cuộc sống yên bình cho người dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Luận điệu “sát hại cụ Kình và bắt giữ con cháu cũng như dân làng ở đây” là hoàn toàn bịa đặt của Phạm Minh Vũ nhằm mục đích vu cáo chính quyền, gây hiểu lầm trong nhân dân, làm nóng tình hình, gây mất an ninh chính trị. Bởi vì, không ai “sát hại cụ Kình” cả mà nói đúng là tên Kình đã bị tiêu diệt thì mới đúng bản chất sự việc . Bởi Lê Đình Kình có vai trò chủ mưu trong vụ án “Giết người” và  “tội Chống người thi hành công vụ”. Hành vi của Kình là rất manh động, mặc dù đã được tuyên truyền, khuyên giải nhưng bất chấp tất cả thực hiện hành vi giết người đến cùng. Chính vì vậy, không tiêu diệt được Kình thì hậu quả lớn hơn nữa, để bảo đảm tính mạng người dân và những người thực thi pháp luật, tiêu diệt Kình là đúng pháp luật, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Cơ quan thực thi pháp luật cũng  không “bắt giữ con cháu cũng như dân làng ở đây” mà chỉ bắt giữ 29 tên về tội “giết người”, “chống người thi hành công vụ”. Đây là những kẻ phạm tội, coi thường pháp luật, coi mạng người như cỏ rác, còn con cháu của Kình và những người dân ở đây không phạm tội vẫn làm ăn bình thường tại địa phương đó là thực tế không thể phủ nhận.

Luận điệu cho rằng chính quyền đã “thủ tiêu 3 đồng chí của mình để dư luận trông có vẻ hợp lý vụ tấn công vào Đồng Tâm là chính đáng” mà Phạm Minh Vũ đã chứng tỏ rằng Vũ là kẻ táng tận lương tâm, bất chấp luân thường đạo lý, đang tâm đổi trắng thay đen, không phải là con người còn chút lương tri. Bởi vì, Lê Đình Kình và đồng bọn đã vi phạm pháp luật, mặc dù đã được tuyên truyền song vẫn cố tình phạm tội, hơn nữa mức độ ngày càng nguy hại hơn, chính vì vậy để bảo đảm công bằng xã hội, thượng tôn pháp luật thì cơ quan chức năng tiến hành chấn áp, bắt giữ kẻ phạm tội đó là đúng pháp luật được nhân dân đồng tình ủng hộ. Do đó cần gì phải “thủ tiêu 3 đồng chí của mình để dư luận trông có vẻ hợp lý vụ tấn công vào Đồng Tâm là chính đáng”. Sự thật là “...Chức dùng tuýp sắt gắn dao bầu chọc từ trên xuống, các đối tượng khác ném bom xăng, gạch đá khiến 2 chiến sĩ công an rơi xuống hố ở khoảng giữa nhà đối tượng Hợi và Kình. Nhóm tội phạm ở trên đã đổ xăng xuống hố các chiến sĩ công an rơi xuống và châm lửa đốt, hậu quả làm 3 chiến sĩ tử vong”, đó là sự thật không thể thay đổi được.Tôi nói đến đây chắc anh cũng hiểu được rằng luận điệu của anh đưa ra là hoàn toàn sai trái kể cả về pháp luật, tình cảm và truyền thống dòng máu lạc hồng trong mỗi người dân yêu nước chân chính.

Thật nực cười cho Phạm Minh Vũ luôn tự cho mình là nhà hoạt động “dân chủ” vậy mà những hành động lời nói lại đi ngược với nguyện vọng lợi ích chính đáng của nhân dân. Cố tình không hiểu rõ đúng sai, ngụy biện vô lối, đổi trắng thay đen, bán rẻ lương tâm vì một chút vật chất tầm thường mà đang tâm làm tay sai cho các thế lực thù địch. Cái luận điệu “Khẩu phật, tâm xà” phản động của anh đưa ra không thể lừa dối được ai đâu, hãy là người dân lương thiện trước khi quá muộn, đừng để tiếng xấu cho con cháu anh về sau.

Thanh Tú - Nguồn: Đấu trường dân chủ

 Quan điểm nhất quán của Chính phủ Việt Nam là không cấm sự phát triển của mạng Internet, mà chỉ nghiêm cấm mặt trái do Internet gây ra, trái với bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc, cản trở sự phát triển xã hội.



Theo báo cáo Vietnam Digital Advertising 2019 do Adsota phát hành, trong năm qua, trung bình hằng ngày mỗi người Việt Nam dành khoảng 6 tiếng 42 phút - tương đương ¼ ngày, để truy cập Internet trên tất cả các thiết bị. Trong đó, 2 tiếng 33 phút được dành để truy cập vào các mạng xã hội, cao hơn so với mức trung bình của thế giới là 2 tiếng 16 phút.

Tuy nhiên, Internet và mạng xã hội một mặt đem lại rất nhiều lợi ích cho người dùng nhưng cũng đem theo những mặt trái, trong đó có vấn đề về quyền con người. Những vấn đề này đòi hỏi phải có những khung pháp lý và chính sách quản lý để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt trái trên không gian mạng.


Trẻ em đang là đối tượng bị tổn thương nhiều nhất trên môi trường mạng. Mới đây, bà Lesley Miller, Phó trưởng đại diện UNICEF tại Việt Nam cho rằng, bên cạnh những cơ hội, Internet, CNTT cũng đang đưa đến nhiều thách thức, mặt trái.

Các nền tảng mạng tạo ra cách mạng với cuộc sống của trẻ em, song đồng thời cũng mang lại những lạm dụng và khai thác trẻ em kinh khủng nhất.

Còn đại diện A05, Bộ Công an cho biết, số vụ việc phản ánh về tội phạm mà cơ quan này tiếp nhận hàng năm chỉ khoảng hơn 1.000 vụ, tuy nhiên trong đó số lượng vụ việc về tội phạm xâm hại trẻ em trên môi trường mạng ngày càng chiếm tỷ lệ lớn hơn và xu hướng tội phạm cũng đang chuyển dần lên môi trường mạng.


Môi trường mạng xã hội giờ đây được cho là mảnh đất màu mỡ cho tin giả (fake news) phát triển. Mới đây, thông tin giả về vụ việc Trấn Thành bị tố "bay lắc" trên mạng xã hội lan truyền với tốc độ chóng mặt. Sau đó, Trấn Thành đã tìm ra người tung tin, trực tiếp gặp, nói chuyện và cuối cùng, quyết định khởi kiện việc này nhằm lấy lại danh dự cho mình. Trấn Thành cho biết, bản thân anh bị thiệt hại về tinh thần, một số hợp đồng quảng cáo bị mất... từ tin đồn thất thiệt này. Tất nhiên, Trấn Thành không phải trường hợp đầu tiên bị cư dân mạng "đặt điều" mà rất nhiều người nổi tiếng cũng đã từng hứng chịu nỗi khổ này từ mạng xã hội.

Có một ví dụ rất điển hình liên quan đến việc các tin tức giả tấn công người Việt trên mạng xã hội trở thành vấn nạn. Bộ Công an cho biết, lợi dụng dịch bệnh Covid-19, các thế lực thù địch, phản động, các đối tượng bất mãn chính trị trong và ngoài nước đã lợi dụng phát tán trên không gian mạng nhiều thông tin sai sự thật, xuyên tạc tình hình dịch bệnh và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Bộ Y tế và các bộ, ngành, địa phương. Nhiều đối tượng cũng đã tung tin thất thiệt hoặc đưa những thông tin thiếu tính xác thực, chưa được kiểm chứng, phỏng đoán theo quan điểm, nhận thức cá nhân nhằm câu view, câu like, gây hoang mang trong dư luận xã hội.


Trên mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động tạo ra rất nhiều group, diễn đàn và tạo ra nhiều thông tin giả, thông tin xấu độc nhằm tuyên truyền xuyên tạc, kích động, làm nhiễu loạn thông tin, gây hoang mang trong dư luận, tạo sự bất ổn về an ninh trật tự để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Một số đối tượng lấy danh nghĩa “quyền tự do ngôn luận” để bày tỏ quan điểm cá nhân, nhưng nhằm mục đích tạo ra tình trạng bất ổn, chia rẽ trong nội bộ, tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm mất ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nếu các trường hợp này bị xử lý, thì các thế lực thù địch lại dùng chiêu bài “Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận”, “vi phạm tự do Internet”...


Việt Nam đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm bảo đảm an ninh mạng, phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các đối tượng lợi dụng Internet vi phạm quyền và lợi ích của nhà nước và công dân. Điều này không chỉ phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật các quốc gia khác quy định trên lĩnh vực này mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của Internet và nền kinh tế số tại Việt Nam; bảo vệ các quyền của người dân và xã hội.

Theo báo cáo của Bộ TT&TT, trong năm 2019, đối với công tác quản lý thông tin điện tử, Bộ đã chủ động đàm phán, đấu tranh quyết liệt với Facebook, Google, buộc 2 nền tảng này phải tích cực hợp tác trong việc gỡ bỏ các nội dung vi phạm pháp luật Việt Nam và có giải pháp ngăn chặn tình trạng phát tán tin giả, tài khoản giả mạo. Bộ TT&TT cũng phối hợp với các bộ, ngành liên quan như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Công an cùng triển khai đồng bộ các biện pháp đấu tranh về pháp lý, kinh tế, kỹ thuật để yêu cầu Facebook, Google tuân thủ nghiêm túc pháp luật Việt Nam.

Ông Lưu Đình Phúc, Cục trưởng Cục Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử cho biết, hiện Facebook đã có sự quan tâm rất lớn đến fake news. Thời gian tới, Bộ TT&TT sẽ tiếp tục làm việc với Facebook trong việc ngăn chặn tin giả trên mạng xã hội này.

Bên cạnh đó, để xử lý vấn đề tin giả trên môi trường mạng, Bộ TT&TT đã thực hiện đồng bộ một số giải pháp như chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông trong nước ngăn chặn các website không rõ nguồn gốc đưa tin giả mạo, xử lý nghiêm những đối tượng trong nước phát tán thông tin giả mạo. Ngoài ra, Bộ chỉ đạo các cơ quan báo chí đấu tranh, phản bác các tin giả, thông tin xuyên tạc về chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để kịp thời cung cấp thông tin, định hướng các cơ quan báo chí thông tin chính xác, đầy đủ, khách quan về các vấn đề “nóng” đang được lan truyền trên mạng để hạn chế tác động tiêu cực.

Trên cơ sở đó, Bộ TT&TT sẽ thiết lập cơ chế chia sẻ thông tin tức thời, hiệu quả giữa cơ quan chức năng với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet và cộng đồng trong việc điều phối, xử lý các nguồn phát tán thông tin vi phạm pháp luật trên mạng, vận hành hệ thống hỗ trợ người sử dụng truy cập Internet an toàn. Bên cạnh đó, Bộ hỗ trợ và phát triển cộng đồng, thiết lập cơ chế liên lạc đơn giản, thuận tiện, sẵn sàng để người sử dụng phản ánh về các nguồn phát tán thông tin vi phạm pháp luật, thông tin gây nguy hại đến cá nhân, tổ chức tới cơ quan chức năng.


Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử”, có hiệu lực thi thành từ ngày 15/4/2020. Đáng chú ý, Nghị định này tăng mức xử phạt đến 20 triệu đồng đối với các hành vi lợi dụng mạng xã hội đăng tải, chia sẻ thông tin sai sự thật xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân… để đảm bảo an toàn trên môi trường mạng.


Có thể thấy, hệ thống pháp luật của Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ và tương thích với luật quốc tế về quyền con người. Đặc biệt, luật An ninh mạng đang dần đi vào cuộc sống và góp phần đảm bảo an toàn trên không gian mạng.

Luật An ninh mạng đã tạo nên nền tảng pháp lý vững chắc, phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân... Mọi cá nhân vẫn được bày tỏ chính kiến trên không gian mạng, tự do ngôn luận hoàn toàn không bị hạn chế nếu chấp hành các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, luật đã giúp tạo môi trường lành mạnh, an toàn. Việt Nam không cấm sự phát triển của mạng Internet, mà chỉ nghiêm cấm mặt trái do Internet gây ra, trái với bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc, cản trở sự phát triển xã hội, xâm phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước.

Bài: Thái Khang, Thu Hằng | Ảnh: Tư liệu
Đồ họa: Multimedia VietNamNet
Nguồn: Báo Vietnamnet

 Những ngày này, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang phấn khởi chào mừng kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh (2-9).


Ngày mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Đảng, Chính phủ Lâm thời và quốc dân đồng bào đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, đánh dấu một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ cộng hòa”. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cũng đã và đang ra sức lập thành tích chào mừng đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng-đại hội có ý nghĩa bản lề, đánh dấu 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới; đồng thời tiếp tục mở ra thời kỳ phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945. (Ảnh tư liệu TTXVN).

Ấy vậy, chính những ngày tháng Tám này, vẫn có người cố tình ngược dòng lịch sử, núp bóng dưới những tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh để nhằm xuyên tạc chính tư tưởng, cuộc đời và sự nghiệp của Người, nhằm chống phá Đại hội XIII của Đảng. Họ đã dở chiêu trò lừa gạt hết sức thâm hiểm là đưa ra câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”, cùng những "bình loạn" lăng nhăng, hòng lòe bịp người chưa hiểu biết nhiều về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chiến đấu, hy sinh, cống hiến trọn cuộc đời mình để dân tộc Việt Nam có được như ngày hôm nay.

Trong bản gọi là “Góp ý cho Dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng”, với 24 trang in màu, tác giả đã xưng danh và tự nhận đã có một thời tham gia các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; từng là thành viên của một đại đội anh hùng... Mục đích cũng là để “khéo” gây lòng tin, thiện cảm về mình; từ đó dẫn dắt người đọc đến với sự xuyên tạc trắng trợn, bóp méo tư tưởng, cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm “thần thánh hóa”, “tôn giáo hóa” Hồ Chí Minh. Cuối cùng, họ mong muốn không ai dám đụng vào những triết lý gọi là “Thần đạo Việt Nam” do chính họ tưởng tượng ra và mô tả trong bản "góp ý". Cũng từ đó họ suy ra và xuyên tạc Chủ nghĩa Mác, phủ nhận thành tựu của CNXH ở Liên Xô và chủ nghĩa duy vật biện chứng; phản ánh sai lạc, tiến tới phủ nhận thành quả và con đường đi lên CNXH mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn. Cuối cùng họ cũng lộ ra cái “kiến nghị” quay lại “chính thể Việt Nam Dân chủ cộng hòa”; “Phục hưng đất nước và phục hưng giá trị con người trước hết là phục hưng Thần đạo Việt Nam”...

Sự sai lầm dẫn đến phản động về chính trị của cái gọi là bản “góp ý” này được thể hiện trên những vấn đề sau:

Với chủ nghĩa cộng sản. Họ đã quy kết chủ nghĩa cộng sản chỉ là “đấu tranh/ phân biệt”; và dám cả gan bịa ra rằng: “Đấu tranh giai cấp là một điều ngu ngốc”? Có thể thấy, trước hết ở đây là thể hiện sự kém hiểu biết về bản chất của chủ nghĩa cộng sản; sau là xuyên tạc tư tưởng và hành động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghiên cứu Hồ Chí Minh toàn tập (bộ 15 tập), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2011, không có một dòng nào, chữ nào Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và nói như họ dẫn dắt.

Học thuyết Mác-Lênin đã chỉ ra, đấu tranh giai cấp là một hiện tượng lịch sử, tất yếu trong xã hội có bóc lột, áp bức giai cấp và nhà nước. Giai cấp và nhà nước chỉ thực sự mất đi khi giai cấp công nhân-giai cấp cuối cùng trong lịch sử nhân loại hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo nhân dân lao động hoàn thành trận chiến đấu cuối cùng là lật đổ giai cấp tư sản áp bức, bóc lột và thủ tiêu nhà nước của chúng; xây dựng một nhà nước, chế độ xã hội không còn áp bức, bóc lột nữa; đồng thời cũng thủ tiêu chính sự hiện diện của mình và nhà nước của mình với tính cách là một giai cấp và công cụ của giai cấp ấy, để xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản. Cuộc đấu tranh giai cấp ấy được tiến hành bằng nhiều biện pháp: Đấu tranh vũ trang, đấu tranh hòa bình, hoặc kết hợp cả hai. Không thể lấy, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai hình thức đó, nhất là như ở Liên Xô và Việt Nam để quy kết chủ nghĩa cộng sản chỉ là “đấu tranh/ phân biệt”, rồi phủ nhận toàn bộ học thuyết khoa học, cách mạng này.

Với tư tưởng và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ đã trích dẫn, phản ánh sai lệch hầu như toàn bộ tư tưởng và hành động cách mạng của Người. Trong 24 trang đó, họ đã “trích dẫn” rất nhiều “câu nói”, “bài viết” của Hồ Chí Minh, nhưng chỉ có một câu chép đúng là: “Trăm điều phải có Thần linh Pháp quyền”, còn lại đều cố tình trích dẫn sai lệch, hoặc bóp méo, nhằm đạt được dụng ý xấu trong cái gọi là “góp ý” của mình là “tôn giáo hóa” tư tưởng Hồ Chí Minh. Thời điểm ra đời câu nói này, họ đã phản ánh sai là “ngày 19-5-1941”; mà chính xác, Hồ Chí Minh khi đó lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, viết trong bài thơ Việt Nam yêu cầu ca, vào khoảng tháng 6 đến tháng 11-1921. Bài thơ do Người viết tay, nay còn được lưu tại Viện Hồ Chí Minh và Các lãnh tụ của Đảng.  

Cũng trong bản "góp ý" này, họ đã núp bóng tư tưởng Hồ Chí Minh để tuyên truyền cho những triết lý “Thần đạo và Lãnh đạo” của mình. Nhưng ngay cả câu nói nổi tiếng nhất đã đi vào lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng ta và lịch sử thế giới là: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh nói ngày 17-7-1966 cũng bị họ cố tình bịa đặt thời điểm là ngày 19-5-1941. Đồng thời, họ trích dẫn và phản ánh sai lệch tư tưởng của C.Mác, khi cho rằng: “còn Mác lại có tư tưởng Vô thần nhất, khi ông coi tôn giáo, tín ngưỡng của nhân loại chỉ là “Thuốc phiện của nhân dân”? Mà đáng lẽ ra họ phải phản ánh đầy đủ, nguyên tác lời văn và giải thích đúng đắn tư tưởng của Mác là: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”; và một khi con người còn bị nghèo đói do những bất công của xã hội đem lại, họ không còn nơi nào để giúp đỡ nữa; khi không còn lối thoát nào khác thì họ nương nhờ vào chính những đức tin tôn giáo do họ sáng tạo ra, để quên đi, ru ngủ cuộc sống đau buồn của họ như dùng những liều thuốc phiện.

Về cái gọi là “Thần đạo Việt Nam”. Trong cái gọi là bản “góp ý” này, họ lúc nào cũng nêu lên “Thần đạo Việt Nam” và gắn kết nó trong một câu phức hợp với nhiều ý tứ, ngôn từ của Hồ Chí Minh, những mục tiêu, lý tưởng, giá trị tốt đẹp của dân tộc, chủ nghĩa cộng sản và nhân loại, cả ở quá khứ, hiện tại và “đường hướng” do họ vạch ra cho đất nước ở tương lai. Nhưng nội hàm “Thần đạo” đó là cái gì thì không rõ. Người đọc phải lần tìm từng chữ, nghĩa và những hình ảnh về di sản vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam mà họ “trưng diện” mới cố mà hiểu được, như tượng Quốc Mẫu Âu Cơ, Phù điêu Quốc Tổ Lạc Long Quân, Đền Hùng, Hoàng Thành Thăng Long, Chiếu dời đô của Vua Lý Thái Tổ... Phải chăng sự tập hợp những di sản vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam trên đây được đúc kết trở thành cái gọi là “Thần đạo Việt Nam” của họ?

Trong đời sống hiện thực của nhân dân, những giá trị đó không có gì khác hơn là truyền thống lịch sử hào hùng về dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và lịch sử dân tộc thời đại Hồ Chí Minh đã đúc kết. Đọc kỹ cái gọi là bản "góp ý" kiểu tóm tắt của họ mới thấy, cái gọi là “Thần đạo Việt Nam” do họ tạo dựng nên, thực chất chỉ là sự góp nhặt lộn xộn, đầy mâu thuẫn và đối lập với những giá trị trong đời sống hiện thực của đất nước và của dân tộc Việt Nam hiện nay, nhất là đối lập với nền tảng tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Còn nhiều vấn đề sai lạc, lệch chuẩn và phản động về chính trị ở cái gọi là bản “góp ý” này. Như để lôi kéo được nhiều người, thủ đoạn của họ khá tinh vi, tựu trung ở một số thủ đoạn chủ yếu sau: 1) Trưng ra một câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi đó như tấm “bùa hộ mệnh” để không ai có thể phản biện hoặc phê phán họ; 2) Đưa ra những câu từ phức hợp, lươn lẹo, “nửa đúng, nửa sai” hòng tuyên truyền, đánh lạc hướng người đọc, từ đó phủ nhận cái đúng, dụ dỗ và chiếm đoạt niềm tin của những người kém hiểu biết; 3) Núp bóng danh hiệu của tập thể anh hùng, mượn danh cựu chiến binh để gây lòng tin với người đọc; 4) Núp bóng thư gửi lãnh đạo cấp cao của Đảng để hòng thu hút, lôi kéo mọi người chú ý; 5) Rỉ tai, phát tán tờ rơi, in ấn bừa bãi, không đúng quy định của pháp luật về xuất bản phẩm...

Chỉ phân tích bước đầu về những tư tưởng và hành động sai trái trên đây của những người tự cho là “góp ý” vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, cho thấy họ không có động cơ đóng góp đúng đắn cho Đảng, Nhà nước, trái lại, đó là sự tuyên truyền những tư tưởng sai lạc, lệch chuẩn đến phản động về chính trị, thông qua những thủ đoạn mới tinh vi, xảo quyệt. Tuy nhiên, với nhận thức chính trị đúng đắn và tinh thần yêu nước sắt son, nhân dân Việt Nam không dễ mắc mưu cái gọi là “thần linh, thần đạo" nhăng nhít của những người tâm địa đen tối.

Đại tá, PGS, TS NGUYỄN VĂN QUANG - Trưởng ban Nghiên cứu tổng kết lý luận, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự

 Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, tiêu ngữ "Độc lập-Tự do-Hạnh phúc" gắn liền quốc hiệu Việt Nam suốt 75 năm qua.


Nhân kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, VnExpress phỏng vấn PGS.TS Lý Việt Quang - Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) về tư tưởng "Độc lập-Tự do-Hạnh phúc" được nêu trong bản Tuyên ngôn độc lập vang lên tại quảng trường Ba Đình mùa thu năm 1945.

PGS. TS Lý Việt Quang - Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Ảnh: Hoàng Thuỳ

- Theo ông, đâu là ngọn nguồn của tư tưởng về quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc được nêu trong bản Tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước CHXHCN Việt Nam?

- Ngọn nguồn của tư tưởng về quyền tự do, độc lập trong bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất chống ngoại xâm - mạch nguồn xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước làm cho dân tộc luôn đứng vững trước những khó khăn, thách thức, không cam chịu khuất phục trước bất cứ thế lực cường quyền nào.

Cùng với mạch nguồn đó, trong quá trình tìm đường cứu nước và trở về lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chắt lọc được nhiều giá trị tinh hoa của nhân loại. Từ tư tưởng của các nhà dân chủ tư sản, như trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp (1791), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc không phải của riêng chủ nghĩa tư bản hay riêng dân tộc nào, mà là giá trị chung của toàn thể nhân loại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng tiếp cận và đánh giá cao chủ nghĩa Tam dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của nhà cách mạng Trung Quốc thời kỳ cận đại Tôn Trung Sơn; cho rằng chủ nghĩa Tam dân có nhiều điểm phù hợp với cách mạng Việt Nam.

Đặc biệt, khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh được tiếp cận với học thuyết về sự giải phóng triệt để con người. Lý tưởng lớn nhất của con người là sự giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công, thực hiện sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

Bên cạnh những mạch nguồn lý luận trên, cội nguồn của tư tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập còn xuất phát từ khát vọng của dân tộc Việt Nam trong gần một thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân và phát xít. Đất nước bị xóa tên trên bản đồ thế giới, người dân kiệt quệ, lầm than. Thông qua Hồ Chí Minh, yêu cầu của lịch sử, của dân tộc Việt Nam đã được đáp ứng, đó là tìm con đường để giải phóng triệt để dân tộc, làm cho dân tộc được hồi sinh trở lại.

- Sáu chữ "Độc lập-Tự do-Hạnh phúc" đã đi liền cùng quốc hiệu Việt Nam trong 75 năm qua. Điều này có ý nghĩa như thế nào?

- Đây là sáu chữ dành cho tất cả mọi người, không phân biệt nam hay nữ, giàu hay nghèo, sang hay hèn, không phân biệt miền xuôi hay miền ngược, tôn giáo, trở thành giá trị chung của dân tộc Việt Nam trong suốt 75 năm qua.

Độc lập, tự do, hạnh phúc là lý tưởng, để đi đến được là cả một hành trình. Việt Nam đã đi được những bước rất dài. Từ đất nước bị xóa tên trên bản đồ thế giới, trở thành quốc gia có chế độ chính trị độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và tự quyết định con đường phát triển của mình. Non sông thống nhất, liền một dải từ Bắc vào Nam.

Quyền tự do của người dân đã được khẳng định và thể chế hoá bằng Hiến pháp, pháp luật. Những giá trị hạnh phúc thực sự cũng đã được mang lại cho người dân trên mọi miền Tổ quốc. Hạnh phúc trước hết là cảm nhận chủ quan của mỗi cá nhân, nhưng nền tảng cho hạnh phúc cá nhân là đất nước hòa bình, các lĩnh vực kinh tế - xã hội đều phát triển; GDP bình quân đầu người tăng từ 1.332 USD/người năm 2010 lên khoảng 3.000 USD/người năm 2020; công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được nhiều thành tựu... Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam được xếp hạng vào nhóm cao trên thế giới.

Lý tưởng là bất biến, nhưng chỉ số để đo thì cần được nâng lên theo tầm thời đại. Hạnh phúc trước đây với nhiều người chỉ là được ăn những bữa cơm không độn khoai, sắn, nhưng hạnh phúc bây giờ không còn đơn giản như vậy. Vì thế, chúng ta đang trong hành trình nỗ lực không ngừng để đạt đến lý tưởng của độc lập, tự do, hạnh phúc, với mục tiêu được cụ thể hóa là "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Ảnh tư liệu

- Theo ông, cần làm những gì để tiếp tục thực hiện và phát triển lý tưởng này?

- Độc lập, tự do, hạnh phúc là giá trị chung của nhân loại, cũng là giá trị mà Việt Nam hướng đến từ khi nước Việt Nam mới ra đời. Để tiếp nối giá trị đó có nhiều công việc cần làm, trong đó theo tôi cần tập trung vào ba việc cơ bản.

Trước hết, chúng ta phải khẳng định và kiên định con đường đã đi là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã được minh chứng bằng thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, thắng lợi vẻ vang của 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới 35 năm qua. Con đường này cũng hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của dân tộc, cũng như với xu hướng phát triển của thời đại.

Thứ hai, để có được thắng lợi của cách mạng Việt Nam thì người lãnh đạo phải đủ tâm, đủ tầm, vừa là đạo đức, vừa là văn minh để quy tụ, thuyết phục, đủ sức tổ chức, lãnh đạo nhân dân. Người lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản Việt Nam phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện tiên quyết cho thắng lợi của cách mạng, bởi lãnh đạo mà sai thì đất nước sẽ đi sai đường, nên người lãnh đạo phải là tinh hoa, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, phẩm giá của dân tộc.

Bên cạnh nhiệm vụ xây dựng đất nước, Đảng cũng phải chú trọng nhận diện và phòng chống hữu hiệu nguy cơ suy thoái, bởi vì bất kỳ đảng nào nắm chính quyền cũng có nguy cơ bị quyền lực làm cho tha hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc, phải chú ý căn bệnh chủ nghĩa cá nhân mà thời kỳ hiện đại có rất nhiều biến tướng. Tại Hội nghị Trung ương 4 (khoá XII), Đảng cũng đã chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái, trong đó 9 biểu hiện về tư tưởng chính trị, 9 biểu hiện về đạo đức lối sống và 9 biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá".

Đặc biệt, Đảng phải chống căn bệnh chủ nghĩa cá nhân vì nó ẩn nấp trong mỗi con người, chờ khi người ta hoặc là thắng lợi, hoặc là sai lầm, thì mới xuất đầu lộ diện. Thắng lợi thì chủ quan, tự mãn, kiêu ngạo, còn sai lầm thì bi quan, chán nản. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, chủ nghĩa cá nhân bịt mắt những nạn nhân của nó. Vậy nên mới có những người được Đảng, Nhà nước tín nhiệm giao giữ những cương vị cấp cao, có công lao, cống hiến, nhưng trên cương vị đó lại mắc những sai lầm, khuyết điểm để bị kỷ luật, thậm chí bị truy tố.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nhắc nhở, một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được quần chúng yêu mến và ca ngợi nếu như lòng dạ không trong sáng nữa, nếu như sa vào chủ nghĩa cá nhân. Đó là sự cảnh tỉnh rất sâu sắc, là chân lý của mọi thời đại mà Đảng cầm quyền phải luôn nhớ.

Thứ ba, một việc quan trọng nữa là nếu chỉ có Đảng, đường lối, con người đi tiên phong thôi thì không đủ, mà cần phải có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Vì vậy, Đảng phải tổ chức được lực lượng của quần chúng, xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cách mạng tháng Tám thành công lúc chỉ có khoảng gần 5.000 Đảng viên, đó là nhờ sự ủng hộ của nhân dân. Đồng thời, trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải mở rộng ra thế giới, thực hiện đoàn kết quốc tế rộng rãi, tranh thủ được sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, vì trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá, không một quốc gia nào có thể đứng ra ngoài sự phát triển chung của nhân loại.

- Cảm xúc của ông mỗi lần đọc lại Tuyên ngôn độc lập vào dịp mùa thu đến?

- Mỗi dịp 2/9, đọc lại bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi cảm thấy tự hào là người Việt Nam, một dân tộc trong 75 năm qua đã quyết "đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập".

Tôi cũng biết ơn sâu sắc đối với sự hy sinh, cống hiến của biết bao anh hùng, liệt sĩ, những người đi trước để có cuộc sống hoà bình, hạnh phúc của đất nước ngày hôm nay.

Trước đây cha ông giành được độc lập thì bây giờ thế hệ chúng ta phải làm cho nền độc lập, tự do đó được phát triển. Trước đây chỉ cần đánh thắng đế quốc, thực dân, nhưng bây giờ phải đánh thắng đói nghèo, lạc hậu để Tổ quốc giàu mạnh, có được vị thế xứng đáng trên trường quốc tế, đời sống của người dân ngày càng hạnh phúc, ấm no. Tôi tin rằng đó cũng là suy nghĩ của rất nhiều người thế hệ ngày nay.

Hoàng Thùy (Vnexpress)

     Dương Đình Phúc bị phạt 5 triệu đồng vì đăng tải bài viết không đúng sự thật về việc cài đặt ứng dụng Bluezone.


Ngày 31/8, Công an tỉnh Bắc Ninh ra quyết định xử phạt hành chính 5 triệu đồng đối với ông Dương Đình Phúc (36 tuổi, người địa phương) về hành vi Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.

Ngày 10/8, trên tài khoản mạng xã hội có tên "Dương Phúc", ông Phúc đưa ra những thông tin không chính xác về việc triển khai, cài đặt Bluezone và kêu gọi mọi người không cài đặt ứng dụng này.

Dương Đình Phúc bị xử phạt tại cơ quan công an. Ảnh cắt từ clip

Tại cơ quan công an, ông Phúc thừa nhận đã sao chép thông tin sai lệch về việc cài đặt Bluezone và đăng tải lên trang cá nhân.

Sau khi được lực lượng chức năng giải thích, nhắc nhở, ông Dương Đình Phúc đã nhận thức được hành vi vi phạm, gỡ bài viết và cam kết không tái phạm.

Hoài Linh (Zingnews)

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.